Hoa Kỳ: Giấc mộng xâm lăng Việt Nam và những quân cờ họ Ngô vô dụng

Bài này chủ yếu nói về giai đoạn chuyển tiếp từ chiến thắng Điện Biên Phủ, ký kết hiệp định Genève (Hiệp định không được thực thi, kẻ xâm lược có rút quân nhưng vấn đề độc lập - thống nhất của VN không được tôn trọng và tổng tuyển cử không được thực hiện.), đến chiến lược chiến tranh đặc biệt, cũng như quá trình chuyển tiếp từ kháng chiến chống Pháp sang kháng chiến chống Mỹ trong cuộc chiến tranh 10.000 ngày (1945-1975).

Bối cảnh lịch sử

Năm 1945-1946, cuộc chiến Việt - Pháp nổ ra khi quân Pháp quay lại Việt Nam để tái chiếm thuộc địa. Năm 1948, Mỹ bắt đầu dính líu, can dự một cách thận trọng vào cuộc chiến này. Đến năm 1950, Mỹ từng bước leo thang can thiệp sâu rộng hơn, đài thọ kinh tế và quân sự cho Pháp.

Mỹ chịu tốn kém như vậy một phần vì mục đích chống Việt Minh, chống cộng sản Việt Nam, một phần để mua lấy "cổ phần", "cổ phiếu" tương lai của thuộc địa giàu tài nguyên này. Mỹ bỏ tiền ra cho Pháp xâm chiếm Việt Nam, thì sau này tất yếu Pháp sẽ phải chia sẻ lại với "nhà đầu tư" Mỹ các nguồn lợi, quyền lợi, các lợi nhuận, lợi ích ở đây. Đôi bên cùng có lợi.

Năm 1954, mặc dù có sự hỗ trợ không quân khá tích cực của Mỹ, quân Pháp vẫn thua to ở Điện Biên Phủ. Sau đó họ phải ký hiệp định Genève 1954, công nhận sự độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương (Việt Nam - Campuchia - Lào), trong vòng 2 năm phải rút hết quân viễn chinh khỏi Việt Nam.

Giai đoạn sau đó, quân đội Pháp lần lượt ra đi nhưng tầm ảnh hưởng của Pháp thì vẫn hiện hữu. Họ chi tiền cho các lực lượng võ trang Bình Xuyên và Hòa Hảo, Cao Đài để thực hiện các mục tiêu quân sự thay cho quân đội viễn chinh Pháp.

Trước đó, trong cuộc chiến Đông Dương, Pháp - Mỹ vốn đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột về lợi ích, về đường lối, về chiến lược, chiến thuật. Sau khi Pháp thua, người Mỹ bất mãn, tiền bạc và vũ khí mà Mỹ "đầu tư" cho Pháp đều đổ sông đổ biển. Mỹ tốn kém bao nhiêu tiền vào đây rốt cuộc Pháp để hỏng việc, mà Mỹ cho rằng một phần là vì các sĩ quan chỉ huy Pháp đã bỏ ngoài tai các ý kiến, đề xuất của người Mỹ.

Sau cuộc chiến, sự xung khắc giữa hai đại cường quốc này ngày càng lớn. Từ đó ở miền Nam hình thành hai thế lực đối lập, thế lực Mỹ (mới) và thế lực Pháp (cũ). Mỹ thâu tóm nhiều tay sai cũ của Pháp, trong số đó có nhiều sĩ quan ngụy đã từng học bên Pháp, có Pháp tịch. Lúc bấy giờ thế và lực của nước Mỹ đã rất cao, còn Pháp bị xem là loại thực dân cũ kỹ, lại để thua Việt Minh, trước sau gì cũng suy tàn, cho nên những tay sai cũ của Pháp đua nhau "nhảy sang thuyền mới". Tuy nhiên có một bộ phận nhỏ vẫn còn tận trung với với chủ cũ Pháp.

Miền Nam Việt Nam lúc này vẫn nằm dưới ảnh hưởng quyền lực bao trùm của thực dân Pháp, vốn đã có gần 100 năm đứng vững tại đây. Còn Mỹ là người mới "chân ướt chân ráo". Do đó mục tiêu của Mỹ lúc này là "hất cẳng" Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, nghĩa là từng bước đẩy lui quyền lực và thay dần vai trò của người Pháp ở miền Nam Việt Nam. Từ đó sẽ hoán chuyển miền Nam Việt Nam từ một thuộc địa kiểu cũ thành một thuộc địa kiểu mới và là một căn cứ quân sự chiến lược của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Và giành quyền kiểm soát, thao túng các nguồn tài nguyên, nhân lực ở khu vực địa chính trị, địa kinh tế quan trọng này. Và cũng để thuận lợi cho Mỹ trong việc thực hiện chính sách chống cộng sản Việt Nam và chiến lược toàn cầu/khu vực, cũng như các mục tiêu chính trị khác của họ trong khu vực giàu tài nguyên này.

Để đạt được mục tiêu chính trị này, đầu tiên Mỹ phải đưa người của họ lên thay người của Pháp (Bảo Đại), tiếp theo đó là tiêu diệt các lực lượng võ trang giang hồ và giáo phái vốn đang tạm thời cộng tác với những người Pháp vẫn còn ở lại miền Nam VN, gạt bỏ hẳn sự ảnh hưởng quân sự của Pháp ra khỏi những vùng trong tầm ảnh hưởng, kiểm soát của Mỹ. Và thế là câu hỏi được đặt ra, Mỹ sẽ chọn ai để đưa lên?

Theo sách "Vietnam, a History" của nhà sử học Stanley Karnow, do NXB Edition King Press xuất bản năm 1983, khi được hỏi tại sao lại chọn ông Diệm mà không phải là một nhân tuyển khác, thì tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã trả lời: "Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó". (Diem is the only boy we’ve got out there).

Tổng thống Johnson đã trả lời rất thật cho câu hỏi này. Tất cả các nhân tuyển, các quân cờ dùng được thì đều đã được người khác dùng rồi. Cựu hoàng Bảo Đại, ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, có chút tiếng tăm, đã được phát xít Nhật dùng rồi đến thực dân Pháp dùng lại. Nhà nho Trần Trọng Kim, là một sĩ phu thanh liêm, có chút uy tín, nhưng nhu nhược và ngây thơ non kém chính trị, đã được phát xít Nhật - kẻ thù của Mỹ - dùng.

Xài lại những con cờ chính trị mà Nhật - Pháp đã sử dụng và bỏ rơi không có lợi gì. Hơn nữa cũng không khả thi, vì Bảo Đại là tay sai trung thành của Pháp, mà lúc này Mỹ đang nỗ lực hất cẳng và thay dần quyền lực của Pháp. Còn ông Trần Trọng Kim thì sau Cách mạng tháng Tám đã tỉnh ngộ ra phần nào nên đã chán ngán và chọn sống ẩn dật, lánh xa thế sự. Người ta có thể bị lừa một lần, nhưng không thể bị lừa hai lần.

Như vậy, Mỹ chọn Diệm là vì lúc đó chỉ còn lại ông Diệm là nhân tuyển khả thi duy nhất mà tương đối hội đủ điều kiện, gia đình danh giá, quyền quý, có kinh nghiệm chính trị - quân sự nhiều năm. Ngô Đình Khả và các con em nhiều lần theo Nguyễn Thân đi khủng bố, tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân. Họ có công lao rất lớn với Tây và ngụy triều trong việc đánh dẹp được cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.

Trước hết phải trình bày sơ lược về giai đoạn Mỹ hất cẳng và hoàn toàn thay chân Pháp (1954-1961). Ngay trong cuộc chiến tranh Việt - Pháp, với thiên tư chính trị của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy ý đồ sâu xa của Mỹ.

Sau đại thắng Điện Biên Phủ, trong khi quân dân cả nước ai nấy đều vui mừng phấn khởi thì Bác Hồ lại ưu tư và cẩn thận nhắc nhở, đại ý: Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta còn phải đánh Mỹ!

Đến tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp trước khi Hiệp định Genève được ký kết mấy ngày, thì lúc đó Đảng và Bác Hồ đã đi đến kết luận chính thức: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương.

Sau khi Pháp buộc phải ký hiệp định Genève 1954. Bác Hồ nói với các đồng chí cấp dưới, đại ý: Hội nghị ký hiệp định Genève thành công, nhưng chắc chắn sẽ làm cho người Việt Nam chưa vừa ý. Người Pháp có câu “Ai trả tiền, kẻ đó là chủ”. Mỹ sẽ thay thế Pháp, chúng ta phải có sự chuẩn bị để đối phó với Mỹ.

Như vậy, trong khi mọi người, kể cả các lãnh đạo cao nhất cho rằng đây là thời điểm kết thúc cuộc chiến, thì Bác Hồ lại đề tỉnh mọi người rằng chiến tranh chỉ mới bắt đầu, đây là thời điểm bắt đầu cuộc chiến mới.

Từ đó, Đảng và Bác Hồ đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này như sau: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Theo đó, mối quan hệ chiến lược giữa hai miền là: Xây dựng miền Bắc để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, miền Nam đẩy mạnh đấu tranh để giải phóng bản thân và cũng để bảo vệ miền Bắc. Miền Bắc có vai trò quyết định, miền Nam có vai trò trực tiếp.

Tại miền Nam, Mỹ gây sức ép với Pháp và thu nhận chính quyền “Quốc gia Việt Nam” (État du Viêt Nam) do Pháp bàn giao. Năm 1955, họ thay người đứng đầu, đưa “thủ tướng” của “Quốc gia Việt Nam” là Ngô Đình Diệm lên thay Bảo Đại, đổi tên “Quốc gia Việt Nam” thành “Việt Nam Cộng hòa” (Republic of Vietnam), rồi sau đó bắt đầu các chuỗi dài hành động đẩy lùi quyền lực của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam và từng bước thay thế.

Ngày 13/1/1955, Ngô Đình Diệm công bố chính thức trên truyền thông Sài Gòn rằng Hoa Kỳ từ nay có toàn quyền về vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Sài Gòn. Ngày 12/2/1955, trong một cuộc họp báo tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm công bố từ nay tướng John O’Daniel sẽ huấn luyện các lực lượng quân đội.

Trước mặt đại diện Hoa Kỳ, các sĩ quan người Việt tổ chức đốt tượng trưng quân hàm, quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Tổng tham mưu. Thay vào đó là những phù hiệu của quân đội Mỹ.

Ngày 6 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố sẽ mở cuộc “trưng cầu dân ý”. Các cơ quan truyền thông Sài Gòn do Mỹ cấp chi phí cũng bắt đầu những chiến dịch thông tin nói xấu Bảo Đại và ca ngợi “thủ tướng anh minh” Ngô Đình Diệm, với những khẩu hiệu phát đi phát lại như: "Phiếu đỏ ta bỏ vô bì / Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi".

Đó là vì có 2 lá phiếu: Một xanh, một đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu: “Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”. Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: “Tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Mỹ-Diệm dàn dựng cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận. Trước đó đã cho cảnh sát gõ cửa từng nhà đe dọa và ép người dân đi ghi tên và bầu cử, bắt giam những người chống lại với lý do tình nghi cộng sản nằm vùng, cho dân Công giáo di cư 1954 - vốn nhiều người chống cộng sản và ủng hộ gia đình Diệm - đi đầu “bỏ phiếu” rồi quay phim chụp hình để quảng cáo hình ảnh Diệm với quốc tế.

Cuộc bỏ phiếu đã trở thành trò hề vì ban tổ chức đã sắp xếp để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Ngô Đình Diệm “đắc cử” với “98,2%” số phiếu. Đại tá CIA Edward Lansdale trước đó đã bảo Diệm rằng: “Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là kế hoạch sắp đặt trước”.

Đại tá Lục quân Hoa Kỳ, tiến sĩ Spencer C. Tucker trong sách Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do ABC-CLIO xuất bản năm 2000 và sử gia Stanley A. Karnow trong sách Vietnam: A history (Việt Nam: 1 lịch sử) do Penguin Books xuất bản năm 1997, đã ghi nhận cái gọi là “trưng cầu dân ý” này còn có những gian lận vụng về lộ liễu khác, như ở Sài Gòn, Diệm công bố được “605.025″ phiếu trong khi khu vực này có chưa tới 450.000 cử tri ghi tên.

Sau khi hoàn thành vụ lừa đảo chính trị, Diệm công bố rằng có đến “98,2%” số phiếu ủng hộ ông ta, kết quả là Bảo Đại, người của Pháp bị phế truất. Còn Ngô Đình Diệm, người của Mỹ được đưa lên đứng đầu. “Quốc gia Việt Nam” đổi tên thành “Việt Nam Cộng hòa”.

Cuối tháng 4 năm 1956, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Một phần vì đề nghị của Mỹ, một phần do vẫn muốn duy trì ảnh hưởng trong ngụy quyền và ngụy quân đã từng dưới quyền của họ, nên chính phủ Pháp đã bàn giao lại phi cơ, tàu thủy, các loại xe quân sự, dụng cụ chiến tranh cho quân đội ngụy đang được Mỹ xây dựng lại, tổ chức lại.

Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp của Pháp – Mỹ (TRIM) trước đây đã chuyển thành “Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân” (CATO – Combat army training organization) gồm toàn người Mỹ. Đến tháng 3/1956 số lượng sĩ quan chỉ huy Mỹ đã từ 351 người lên 1550 người.

Cơ quan trung ương CATO do tướng Samuel Williams phụ trách, gồm 170 người (3 tướng và 167 tá), phân ra nắm mọi ngành. Bên cạnh mỗi bộ tư lệnh quân khu có một đại tá và nhiều sĩ quan khác. Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ có từ 3 đến 5 trung tá. “Cố vấn” Mỹ lúc này chỉ nắm cấp trung đoàn, chưa nắm cấp tiểu đoàn.

Tiếp tục lộ trình hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ bắt đầu từng bước gạt bỏ các lực lượng võ trang thân Pháp, sử dụng quân đội Sài Gòn tảo thanh tiêu diệt các lực lượng này. Đồng thời cũng để làm sạch đi phần nào những vết nhơ, tai tiếng về quá khứ làm quan, làm “thủ tướng” cho thực dân Pháp của ông Diệm và gia đình họ Ngô.

Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đóng ở Rạch Tràm, thuộc xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An và huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho đã họp và nhất trí như sau: Thời gian này, nội bộ giặc đang có những diễn biến phức tạp, bọn tay sai của Pháp và của Mỹ có khả năng sẽ xung đột với nhau. Bọn theo Mỹ đã mạnh lên, hơn hẳn bọn theo Pháp. Nhưng bọn theo Pháp cũng không dễ dàng đầu hàng, vì chúng có võ trang khá mạnh, lại chiếm cứ những vùng đông dân. Chắc chắn bọn chúng sẽ đánh nhau và điều này có lợi cho cách mạng, ta cần phải lợi dụng tình hình.

Ngày 29 và 30/3/1955, Mỹ-Diệm chiếm trung tâm cảnh sát, đẩy lùi quân Bình Xuyên thân Pháp của Bảy Viễn về phía Chợ Lớn. Đồng thời mua chuộc cảnh sát trưởng Lại Hữu Sang từng làm việc cho phòng nhì Pháp. Về cơ bản đã cắt bỏ quyền kiểm soát của Pháp và Bình Xuyên đối với trung tâm cảnh sát.

Đối với liên minh Cao Đài, Mỹ-Diệm dùng nhiều đô la Mỹ chiêu hàng được tướng Trình Minh Thế, rồi dùng Trình Minh Thế đánh bại Bình Xuyên, Bảy Viễn trốn sang Pháp sống lưu vong. Sau đó Mỹ-Diệm giết Trình Minh Thế rồi đổ cho Pháp. Con trai ông Trình Minh Thế là ông Trình Minh Sơn ở Quebec, Canada đã vạch trần và tố cáo tội ác Mỹ-Diệm giết cha mình trên Thời báo Asia (số 22/11/2003) và nguyệt san Làng Văn, Canada (số 232, tháng 12 năm 2002).

Đối với Cao Đài phe Tây Ninh, Mỹ cũng nhanh chóng gây chia rẽ và mua chuộc thành công Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất. Giáo chủ Cao Đài Tây Ninh là Hộ pháp Phạm Công Tắc không chịu cộng tác với Mỹ, đã lánh sang Campuchia.

Ngày 6/5/1955, Mỹ đưa quân ngụy đi tảo thanh dư đảng Bình Xuyên ở cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường và Xóm Củi (Chợ Lớn), quân Bình Xuyên thua chạy về Gò Công và rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955 thì lực lượng Bình Xuyên toàn quân bị tiêu diệt. Riêng quân Bình Xuyên do ông Bảy Môn chỉ huy thì trước đó đã được lực lượng chống Mỹ thuyết phục và đã sớm rút sang Thị Vải để dựa vào cách mạng và đồng bào chống Mỹ-Diệm. Con trai của Bảy Viễn là tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên cũng tử trận trong chiến dịch này.

Sau khi tiêu diệt Cao Đài và Bình Xuyên, Mỹ-Diệm bắt đầu thanh toán Hòa Hảo. Lực lượng võ trang Hòa Hảo đến thời điểm này đã có 3 nhóm biệt lập là Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba Cụt) và Hai Ngoán. Ngày 20/5/1955, quân ngụy dưới sự chỉ huy của các sĩ quan “cố vấn” Mỹ, tổng tấn công vào cả ba nhóm Hòa Hảo cùng một lúc.

Nhóm của Hai Ngoán yếu nhất nên thất trận và bị chiêu hàng nhanh chóng. Hai nhóm Năm Lửa và Ba Cụt tuy khá mạnh nhưng cũng bị thua, bèn trốn vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Mỹ-Diệm. Cả Năm Lửa và Ba Cụt đều cử người bắt liên lạc với lực lượng cộng sản miền Nam để tìm kiếm sự ủng hộ.

Phía cộng sản cho rằng nên giúp đỡ phe yếu thế, gây khó khăn thêm cho Mỹ, nên đã đồng ý trợ giúp, cung cấp lương thực nuôi mấy ngàn quân Hòa Hảo. Được các cán bộ quân sự của cộng sản vốn già dặn kinh nghiệm sau 9 năm đánh Tây giúp sức, lực lượng Hòa Hảo đã thoát nguy và thắng lại được một số trận như Xảo Xáu (Giồng Riềng), Vườn Cỏ (Long Mỹ), Cây Bàng (An Biên). Tuy nhiên, người cộng sản không trực tiếp cầm súng chiến đấu.

Vậy tại sao phía cách mạng không trực tiếp tham chiến? 1. Lúc bấy giờ chính sách của Trung ương ở Hà Nội, được truyền đạt lại bởi các Đảng bộ miền Nam, là thuần túy đấu tranh chính trị, để đòi thực thi hiệp định Genève về Đông Dương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước trong hòa bình, chưa cho phép đấu tranh võ trang. 2. Không có lợi cho cách mạng. "Tọa sơn quan hổ đấu", nằm trên núi xem 2 con hổ Pháp - Mỹ đấu nhau, bảo tồn lực lượng lúc này là thượng sách. Hơn nữa còn có thể đắc lợi ngư ông.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã quyết tâm bình định miền Nam, do bị đánh quá ráo riết và bất mãn với sự án binh bất động của phía cộng sản, Năm Lửa đem 4000 quân đầu hàng Mỹ-Diệm. Lực lượng Ba Cụt ở Kiên Giang với nòng cốt là trung đoàn Lê Quang vẫn cố gắng chống giữ.

Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị “phó tổng thống” Nguyễn Ngọc Thơ dùng tình bạn cũ lừa ra Cần Thơ để nhận chức trung tướng và bị Nguyễn Ngọc Thơ cho quân lính bắt ở Chắc Cà Đao. Đến ngày 13/7/1956 Ba Cụt bị xử chặt đầu ở Cần Thơ. Dân gian lúc đó đã ví von sự kiện này như câu chuyện Hồ Tôn Hiến dụ hàng Từ Hải trong Truyện Kiều. Lực lượng võ trang Hòa Hảo của Ba Cụt một số ra hàng Mỹ, số lớn tan rã, số còn lại khá đông theo về với cách mạng, gia nhập các lực lượng kháng chiến chống Mỹ. Sau đó, về cơ bản chính trị, Mỹ đã khá thành công với mục tiêu thay thế Pháp. Ảnh hưởng chính trị, quân sự của Pháp trong vùng tạm chiếm bị suy giảm đáng kể.

Khủng bố người dân

A. Tố Cộng Diệt Cộng và Đạo luật 10/59


Sau khi tận diệt các lực lượng võ trang thân Pháp, và những ảnh hưởng còn lại của người Pháp trong vùng tạm chiếm ở miền Nam đã không còn là mối đe dọa đáng kể và mối quan tâm hàng đầu, Mỹ rảnh tay chuyển sang tập trung bình định những vùng tạm chiếm, đàn áp những phong trào đấu tranh chính trị đòi thi hành hiệp định Genève về Đông Dương, hành quân càn quét các làng xã, đánh phá cộng sản, củng cố thuộc địa kiểu mới.

Người dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ-Diệm (1958) bất chấp mọi ngăn cấm, đàn áp.
Với sự ủy nhiệm của Mỹ, gia đình họ Ngô bắt đầu đồng lõa thực hiện nhiệm vụ quan trọng hàng đầu do người Mỹ giao cho: Chống Cộng. Và chống cộng sản cũng là ý muốn của gia đình này. Họ bắt đầu thực hiện chính sách Tố Cộng - Diệt Cộng, nghĩa là đấu tố cộng sản/thân cộng và tiêu diệt cộng sản/thân cộng.

Để dễ bề kiểm soát toàn trị, họ chia dân trong vùng tạm chiếm ra làm 3 loại: “Gia đình loại A” là những gia đình kháng chiến chống Pháp cũ, gia đình có người tập kết ra Bắc, những người yêu nước, muốn hòa bình, độc lập, thống nhất. Mỹ-Diệm gọi chung những người này là "Việt Cộng" thay cho danh từ “Việt Minh” vốn có tiếng thơm trong dân, không cần biết người bị gọi như vậy có phải là cộng sản thật hay không.

Ngụy quyền bắt phải treo bảng đỏ (hoặc bảng đen, tùy địa phương) ghi chữ “cộng sản” ngay trước cửa nhà các “gia đình loại A” để đánh dấu. Những người trong gia đình loại này thường xuyên bị phân biệt đối xử, theo dõi và quản chế gắt gao, bị tra khảo đánh đập, đối xử vô nhân đạo.

“Gia đình loại B” là những gia đình có liên hệ bà con họ hàng thân thuộc với “loại A”, hay có mối liên hệ nào đó với cách mạng, thì trước nhà phải treo bảng vàng “thân cộng”. Những người trong gia đình loại này mỗi tháng phải làm tờ cam kết ly khai cộng sản, họ cùng với "loại A" luôn là những đối tượng đầu tiên bị ngụy quyền cơ sở chọn đưa đi lao động khổ sai, xây các trại tập trung mà họ gọi là "Khu Trù Mật", "Ấp Chiến Lược".

“Gia đình loại C” gồm những kẻ chống cộng, hận thù cộng sản, có những mối ân oán tư thù với Việt Minh, trung thành với Mỹ-Diệm, nên ngụy quyền có những chính sách biệt đãi đối với những gia đình loại này.

Phương châm của các ngụy quyền ở cơ sở là “dựa vào loại C, đánh vào loại A làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục”. Họ buộc những gia đình trước đây tham gia kháng chiến chống Pháp, hay có con cháu tham gia kháng chiến phải ra trình diện nhận giấy “cán bộ hồi chánh”. Họ bắt mỗi gia đình phải chụp chung một tấm hình, khai rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp treo trước cửa nhà.

Họ lập ra cơ chế “Ngũ Gia Liên Bảo”, cột 5 đến 7 gia đình lại với nhau và phải chịu trách nhiệm kiểm soát, theo dõi, đề phòng lẫn nhau, không cho “cộng sản” (Họ gọi tất cả những người chống Mỹ-Diệm là "cộng sản", một phần để có danh nghĩa bắt bớ, bỏ tù, giết chóc.) đến ăn ở trong các gia đình này.

Khái niệm “cộng sản” cũng mơ hồ, không cần phải có thẻ Đảng, tất cả những ai nói năng giống cộng sản, hay có quan điểm giống Việt Minh, ai tán thành, đồng ý với các lập luận, quan điểm của cộng sản, đều có thể bị “chụp nón cối” cộng sản, Việt Cộng nằm vùng, tay sai Hà Nội.

Từ đó chiếc “nón cối” cộng sản thường xuyên được tùy tiện gán cho bất kỳ ai mà những kẻ ăn trên ngồi trốc muốn hãm hại, thanh toán tư thù, cướp nhà cướp ruộng hay thậm chí là cướp vợ, cướp con gái của các gia đình, nhất là những người có nhan sắc.

Đồng bào Sài Gòn biểu tình tại chợ Bến Thành phản đối những tội ác của chế độ Mỹ-Diệm (1960)
 Ngày 6/5/1959, ngụy quyền Sài Gòn ban hành Luật 10/59, một đạo luật quy định việc tổ chức các tòa án kiểu phát xít để xử “tội”, bắt bớ, cầm tù và hành quyết (thường là chặt đầu bằng máy chém kiểu phong kiến, nên dân gian miền Nam có câu “lê máy chém khắp miền Nam” để nói về hiện tượng này) những người chống Mỹ, yêu nước, đòi thống nhất đất nước mà ngụy quyền gom chung gọi là “cộng sản”, "cộng phỉ" hay "Việt Cộng".

Người dân Long An biểu tình chống đạo luật sắt máu 10/59. Mỹ-Diệm càng đàn áp bắn giết thì người dân càng không sợ và càng biểu tình chống lại, bất chấp mọi nguy hiểm.
Trước đó, từ năm 1954 đến khi “luật” này có hiệu lực đến năm 1960, đã có khoảng 466 ngàn người cộng sản và cả những người không cộng sản bị bắt, trong đó có khoảng 400 ngàn người bị tù đày, và khoảng 65 ngàn người bị giết hại ở miền Nam Việt Nam. Trong các hung thần tàn ác của nhà họ Ngô thì Ngô Đình Cẩn, em trai của Diệm, là hung tàn nhất. Cẩn bị người dân miền Trung gọi là “bạo chúa miền Trung”.

Các tội ác này của ngụy quyền họ Ngô tuy có gây khiếp sợ và đe dọa được một bộ phận người dân, nhưng cũng làm cho lòng người căm phẫn, vô tình đẩy dân về phía kháng chiến. Đồng thời các tội ác đó càng làm sôi sục, nung nấu ý chí đấu tranh, tạo thêm động lực đấu tranh của các đảng viên cộng sản, thôi thúc đồng bào theo cách mạng để giải phóng miền Nam.

Cùng năm 1959 này, trước tình hình địa ngục trần gian ở miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bàn kế sách xây dựng con đường huyết mạch để tiếp viện vũ khí và nhân lực cho lực lượng cách mạng miền Nam, băng qua dãy núi Trường Sơn. Đường Trường Sơn (Báo chí Mỹ và phương Tây gọi là "Đường mòn Hồ Chí Minh".) được xây dựng, hoàn thiện và phát triển dần từ đây.

B. Ấp Chiến Lược

Nằm trong chương trình “bình định nông thôn”, Mỹ-ngụy có 4 chương trình gom dân, dồn dân với bản chất giống nhau và các hình thức, mức độ, cách làm khác nhau. Đó là các chương trình Khu Dinh Điền, Khu Trù Mật, Ấp Chiến Lược và Ấp Tân Sinh, trong đó Ấp Chiến Lược là mang tính chất trại tập trung kiểu phát xít và gây nhiều tai tiếng nhất.

Ấp Chiến Lược nhìn từ trên không

Ấp Chiến Lược với hàng rào bằng tre và hào cạn cắm chông bao quanh

Hồ sơ Ấp Chiến Lược của ngụy quyền
Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlet Program) là một trại tập trung có công trình phòng thủ bao quanh (thường gồm 3 hào sâu, 2 thành cài chông mìn, dây thép gai), tổ chức thành các “liên gia”, được kiểm soát cực kỳ chặt chẽ như một cỗ máy hoàn chỉnh, có lính canh gác, ban quản trị điều hành mọi hoạt động theo một quy chế nghiêm ngặt nhằm tách du kích ra khỏi nhân dân và tách nông dân ra khỏi phong trào cách mạng, gọi là “tát nước bắt cá”.

Hai giáo sư sử học Randy Roberts và James Stuart Olson trong sách Where the Domino Fell – American and Vietnam 1945-1995 (Nơi Domino rơi – Người Mỹ và Việt Nam 1945-1995) do Brandywine Press xuất bản năm 1999 đã nhận xét: “Cái gọi là chương trình Ấp Chiến Lược thực chất là lùa nông dân Việt Nam ra khỏi làng quê tổ tiên của họ và nhốt họ trong những khu đất rào quanh chắc chắn giống như một nhà tù hơn là các cộng đồng thật sự”.

Ấp được thiết kế theo mục tiêu cô lập dân, thường có hai vòng rào. Vòng ngoài bằng dây kẽm gai, tre hoặc bụi gai. Vòng trong đắp đất, trên gắn kẽm gai. Giữa vòng ngoài và vòng trong là hào sâu khoảng hơn một mét cắm chông nhọn. Mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh có tầm nhìn xa; các cổng ra vào được canh gác cẩn mật.

Ban ngày, người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào đều đóng lại. Mọi trường hợp xâm nhập từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động điện tử. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài. Tổng cộng có khoảng 6 vạn binh lính đảm nhiệm việc canh phòng và tuần tra các Ấp Chiến Lược.

Chương trình được Mỹ-Diệm thực hiện từ tháng 3 năm 1962 theo kinh nghiệm xâm chiếm, cai trị Philippines của Mỹ (1898-1901-1946) và có tham khảo khuôn mẫu của thực dân Anh trong cuộc đàn áp phong trào du kích ở Malaysia. Giới chóp bu ngụy quyền gọi đó là “quốc sách”. Nó là xương sống của chính sách bình định nông thôn với dự án xây dựng 17.000 ấp.

Ban đầu, chương trình thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân Giải phóng bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức ngụy tham nhũng, ăn bớt tiền viện trợ của Mỹ rồi bắt dân phải gánh chịu thay như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp.

Dân bị cưỡng bách lao động xây dựng Ấp Chiến Lược, bị nô dịch và đối xử giống như nô lệ, việc đồng áng của họ bị bỏ phế. Dân chúng bị gom vào một chỗ, phải rời bỏ quê cha đất tổ, xa mảnh đất ông cha đã gắn bó nhiều năm nhiều đời, làm xáo trộn nếp sống thường nhật, văn hóa phong tục dân tộc và địa phương, gây phẫn nộ tột cùng cho quần chúng nông thôn.

Chỉ riêng trong năm 1963, quân Giải phóng và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895 trại tập trung trong số 6.164 trại được lập, số còn lại đã bị phá đi phá lại 5.950 lần. Trong vùng giải phóng, người cộng sản đã quản lý trên 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên miền Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng ngàn trại tập trung đã biến thành làng chiến đấu, theo phương châm "mỗi làng là một thành lũy ngăn giặc" trong văn hóa làng xã cổ truyền của người Việt.

Quân Giải phóng và người dân quan sát mô hình Ấp Chiến Lược và bàn cách phá trại.
Ấp Chiến Lược cuối cùng thất bại, vì nó là một chính sách phản động của giặc xâm lược và tay sai, là một hệ thống bất nhân, gây lầm than cho dân và oán hận trong dư luận. Một số nguyên nhân khác về việc sụp đổ của chương trình Ấp Chiến Lược bao gồm: Tham nhũng, ăn bớt tiền tài trợ Mỹ dành cho chương trình; tổ chức kém; người Mỹ không trực tiếp làm, thiếu nhân sự chuyên môn; thi hành vội vã và theo cách áp đặt, cưỡng chế, gây nhiều tội ác. Bên cạnh đó quân Giải phóng thì phát động phong trào phá trại để trở về quê cũ, hợp lòng dân, phù hợp với quyền lợi thiết thực của dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân, lao động.

Nói chung, hệ thống Ấp Chiến Lược dù có thành công phần nào trong mục tiêu “tát nước bắt cá”, nhưng “tác dụng phụ” của nó là những tai tiếng ngày càng tăng trong dư luận Việt Nam và quốc tế, nó gây ra sự bất mãn, hờn oán tột cùng trong dân, và nó dần thất bại trong các phong trào phá Ấp Chiến Lược do cách mạng phát động với sự hưởng ứng gần như tuyệt đối của bà con nông thôn.

C. Thiên vị Công giáo và đàn áp Phật giáo

Ngoài tai tiếng “gia đình trị”, chính quyền họ Ngô còn có tiếng “Công giáo trị”, phân biệt, đối xử bất công, xua đuổi, trấn áp các giáo phái, tôn giáo khác. Và khi các Phật tử và giới Phật giáo đấu tranh đòi tự do bình đẳng tín ngưỡng thì chính quyền Diệm và quân đội Sài Gòn mạnh tay đàn áp, khủng bố, bắt bớ, bỏ tù, gây ra biến cố Phật giáo năm 1963 mà giới tăng ni Phật tử gọi là một pháp nạn, vụ xả súng Phật Đản Huế, vụ tấn công hóa học, rải chất độc hóa học lên đầu các nhà sư ở Huế, cuộc tấn công chùa Xá Lợi v.v.. Bồ tát Thích Quảng Đức và nhiều tăng ni khác đã tự thiêu để phản đối các cuộc đàn áp của ngụy quyền Ngô Đình Diệm.

Thượng tọa Thích Nhất Hạnh theo góc nhìn đạo pháp, đã nói về những biến cố đó như sau:

“Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà ông đề cập là rất tối ư quan trọng…. Tu sĩ Việt Nam tự thiêu nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi…. Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”

Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

“Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: 1) Thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; 2) Thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; 3) Không muốn sống…Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho kẻ khác… Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người.”

Hòa thượng Thích Quảng Đức cùng sáu người khác là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, Đại đức Thích Thanh Tuệ, Đại đức Thích Thiện Mỹ, Đại đức Thích Nguyên Hương, sư cô Thích Nữ Diệu Quang và Phật tử Đặng Thị Ngọc Tuyền…. đều đã tự thiêu để phản đối chiến tranh, phản đối tội ác, phản đối ngụy quyền và các chính sách, hành động đàn áp Phật giáo của họ.

Sau nhiều cuộc tự thiêu đó, ngụy quyền Ngô Đình Diệm bối rối vu khống “nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp”. Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu, em dâu Ngô Đình Diệm) nói thêm những câu vô cảm đổ dầu vào lửa mà các báo chí quốc tế đã ghi nhận:

“Tất cả những việc mà Phật giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một nhà sư….”

“Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưỡng bức thiêu sống.”

“Tôi sẽ vỗ tay khi thấy thêm một cuộc trình diễn thịt nướng, một người không thể chịu trách nhiệm cho sự khùng điên của những người khác.”

“Cứ để họ bị đốt đi và chúng tôi sẽ vỗ tay.”


Về sau bà Nhu đã tìm cách nói chữa, khỏa lấp hoặc biện minh các phát biểu vô trách nhiệm này. Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó sư cô Diệu Quang tự thiêu ở Khánh Hòa. Sau bi kịch đó, bà Nhu lại nói: “Nếu Phật giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất vui lòng cung cấp xăng.”

Thời điểm đó nhân dân các quốc gia Á – Phi cùng nhau xuống đường liên tục biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam với các biểu ngữ lớn: “Một tăng sĩ Phật giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.” Ngoài ra vụ thảm sát đầu độc giết hại hàng ngàn tù chính trị ở nhà tù Phú Lợi, tuy không liên quan đến vấn đề tôn giáo, những cũng gây chấn động và làm nóng dư luận thêm hơn. Ngụy quyền nhà họ Ngô bị chống ở Việt Nam và khắp thế giới, họ bị chống bởi cả những tay sai khác của Hoa Kỳ.

Buôn lậu ma túy

Tiến sĩ ngành Sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi lớn, ông viết cùng học giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:

Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Trung Hoa và người Việt Nam vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức có thế lực của người Hoa ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại. 5 năm sau, báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về Sài Gòn. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của hàng không Lào, giao cho trùm ma túy tội phạm quốc tế Bonaventure “Rock” Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu.

Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về Việt Nam hàng ngày.

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn.

Tuy nhiên, một số người bênh vực chế độ Ngô Đình Diệm lại quy trách nhiệm cho bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có tên "Sở Nghiên cứu Chính trị – Xã hội" do cơ quan CIA tài trợ.

Sách báo Hoa Kỳ thời gian này vạch trần và chỉ trích tệ nạn buôn bán ma túy của Ngô Đình Nhu rất quyết liệt, có lẽ vì không có ông chủ nào thích thú khi nhân viên dưới quyền mình đi "làm ăn riêng". Tuy nhiên, một số cơ quan trực thuộc chính phủ Mỹ và CIA cũng chẳng hơn gì. CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Myanma và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.

Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.

Nhà ngoại giao người Canada, giáo sư Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan dưới quyền CIA do Miguel Nazar Haro đứng đầu.

Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp “giấy phép” đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về các cuộc chiến tranh ma túy tại Mexico.

Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tiến công nước này năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.

Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:

Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.

Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.

Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.

Về tổng thể, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, nhất ở vùng New York và Chicago, và ngụy quyền họ Ngô chính là đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy Hoa Kỳ và toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.

Quân dân miền Nam chiến đấu ngoan cường

Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, nhất là từ khi Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật 10/59 công khai tàn sát, làm nhiều cán bộ, đảng viên và người dân bị giết hại, tù đày. Trong khi chủ trương và đường lối của cách mạng lúc đó là thuần túy đấu tranh chính trị, đấu tranh võ trang về cơ bản là chưa được phép. Tình hình lúc đó là trên chưa cho đánh, trong khi quân giặc ngày càng tăng cường tàn sát.

Hiện tượng đó làm nhiều cán bộ, đảng viên và người dân miền Nam bất mãn và bớt tin tưởng vào Trung ương ở miền Bắc về chủ trương chỉ đấu tranh chính trị – không đấu tranh võ trang. Bất mãn nhưng vẫn làm theo. Tuy nhiên vẫn có một số người mất hết lòng tin, nản lòng rồi ra hàng giặc.

A. Đề cương cách mạng miền Nam

Vào tháng 8/1956, ông Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đi quan sát và lấy ý kiến Đảng bộ và nhân dân Cà Mau, Bến Tre và khu vực Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn để hoàn thành dự thảo “Đường lối cách mạng miền Nam“. Hội nghị lần thứ hai của Xứ ủy đã đã thông qua “Đường lối cách mạng miền Nam” và báo cáo Bộ Chính trị và chủ tịch Hồ Chí Minh. “Đường lối cách mạng miền Nam” trở thành văn kiện chính trị “Đề cương cách mạng miền Nam“, trong đó đúc kết:

“Trên cơ sở nhận rõ mục đích yêu cầu, vị trí và đối tượng của cách mạng miền Nam, cần định ra đường lối phương pháp đấu tranh thích hợp để phát triển lực lượng, đẩy mạnh phong trào, đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công…. Muốn chống Mỹ-Diệm nhân dân miền Nam chỉ có con đường cách mạng, không có con đường nào khác“.

Như vậy là tiếp theo Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 6/1956), Đề cương cách mạng miền Nam và nghị quyết Xứ ủy Nam Bộ đã xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam. Trước mắt trong tình hình hòa bình phát triển đã qua nhưng toàn dân khởi nghĩa chưa tới, Xứ ủy Nam Bộ đã tổ chức võ trang tuyên truyền theo kinh nghiệm của chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người thành lập Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

Thực tiễn tổ chức và hoạt động võ trang tuyên truyền còn do sự sáng tạo của từng địa phương và diễn ra phong phú nhưng đều nhằm tiến tới khởi nghĩa lật đổ chính quyền Mỹ-Diệm.

Tại Liên khu 5, do sự tấn công càn quét có hiệu quả của Mỹ-Diệm và do các Đảng bộ địa phương nhận định không rõ đặc điểm khác nhau của từng vùng trong khu để vận dụng phương pháp đấu tranh thích hợp, nên phong trào đấu tranh ở đồng bằng bị sa sút nặng.

Tháng 9/1956, vì là nhân vật lãnh đạo đầu não quan trọng và cần được an toàn, ông Lê Duẩn ra Bắc theo đường Hồ Chí Minh trên biển và đường hàng không, 2 trong 5 “đường mòn Hồ Chí Minh”. Ông đi tàu biển từ Campuchia ra Hồng Kông, bay sang Quảng Châu (Trung Quốc) đến 4/6/1957 mới tới Hà Nội.

Ra Hà Nội, ông Lê Duẩn trình lên Hồ chủ tịch và Bộ Chính Trị bản Đề cương cách mạng miền Nam với kết luận: “Ban đầu thì miền Nam nổi dậy nhưng cuối cùng phải dùng sức mạnh của cả nước mới cản được đế quốc Mỹ”. Đồng thời báo cáo cụ thể với Bộ Chính Trị về tình hình địch – ta và ý kiến, nguyện vọng của đảng viên, quần chúng trong Nam đề nghị phát động đấu tranh võ trang. Nhưng quan điểm của Lê Duẩn chưa tìm được nhiều sự đồng thuận.

Tuy nhiên, sau khi đọc đề cương và nghe Lê Duẩn báo cáo, sau khi suy nghĩ cặn kẽ, chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần trọng dụng nhân tài, con mắt nhìn người tinh tường và thuật dùng người chuẩn xác, vẫn giao cho ông làm công việc của tổng bí thư Đảng và trực tiếp chỉ đạo miền Nam chống Mỹ.

Đánh giá rất cao Đề cương cách mạng miền Nam, Hồ chủ tịch giao cho Lê Duẩn chuẩn bị một Nghị quyết về cách mạng miền Nam. Ông Lê Duẩn hỏi thêm ý kiến của Bác Hồ, trao đổi với các lãnh đạo như đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng…. và đã cùng nhiều đồng chí lãnh đạo và cán bộ nghiêm túc chuẩn bị cho Nghị quyết mới. Chưa có một dự thảo nghị quyết nào của Trung ương được chuẩn bị công phu như nghị quyết này.

Lúc này, nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô khuyên Việt Nam là “nên giữ hòa bình”. Còn Trung Quốc thì vẫn lặp lại chủ trương từ đầu của họ là nên “trường kỳ mai phục”. Nên “mai phục” 10 năm, 20 năm, thậm chí cả 100 năm, "đại nghiệp thống nhất là việc khó khăn gian khổ và lâu dài, nên kiên nhẫn", "hiện tại các đồng chí chưa thống nhất được thì đời con cháu sẽ làm trong tương lai", "chỉ nên đánh du kích, không nên đánh lớn".... Đây không hẳn là những góp ý thật lòng mà là những ngụy biện “khuyên đểu”, một ngụy biện quanh co ý nói hãy thủ tiêu tranh đấu, ngưng chiến đấu chống Mỹ, vì các mục đích, mục tiêu và lợi ích chính trị của họ. Sau này, như văn kiện "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua" do nhà xuất bản Sự Thật bạch hóa năm 1979 và nhiều hồ sơ, tài liệu khác, Trung Quốc có giai đoạn đã "ngoại giao bóng bàn" với Hoa Kỳ và "liên Mỹ đả Việt", không ngừng đâm sau lưng Việt Nam, quấy phá công cuộc chống Mỹ của VN, không muốn VN chiến thắng và thống nhất, viện trợ đạn hỏng, vũ khí hỏng, giấu hàng Liên Xô, tháo gỡ bớt các tính năng vũ khí viện trợ, căn dặn lính biên phòng phải đề phòng VN, rút chuyên gia, mưu toan thông qua người Pháp bắt liên lạc với ông Dương Văn Minh để mua chuộc, dụ dỗ, hứa hẹn chỉ cần cố gắng tử thủ thì Trung Quốc sẽ trợ giúp, sau đó tiếp tục hỗ trợ Khmer Đỏ chống Việt Nam và đỉnh cao của sự phản bội lâu năm này là cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979....

Trong tình hình Mỹ quyết tâm xâm lược và cùng với tay sai gây ra các tội ác chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, Liên Xô thì dè dặt, Trung Quốc thì không thật lòng (Ngay từ năm 1954 Trung Quốc đã thỏa hiệp và đi đêm với Pháp - Mỹ sau lưng nhân dân Việt Nam, chỉ có duy nhất Liên Xô trung thành với VN. Do Việt - Nga bị lép vế trước số đông do đàm phán đa phương, nên kết quả của hội nghị Genève về Đông Dương đã không tương xứng với những gì quân đội VN đạt được trên chiến trường sau chiến thắng Điện Biên Phủ.), chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo của Việt Nam ngày đêm suy nghĩ để vạch ra đường lối và biện pháp, bước đi uyển chuyển và thích hợp cho cách mạng miền Nam. Vừa phải tìm cách thắng Mỹ, vừa phải tìm cách giữ cho các nước khác giúp đỡ ta, hay ít nhất không trở mặt với ta.

Vào cuối năm 1958, tình hình miền Nam đã quá căng thẳng. Các cuộc khủng bố đẫm máu của ngụy quyền họ Ngô đối với người dân đã lên đến đỉnh cao về mức độ khốc liệt và tính chất phi nhân. Những người cộng sản và cả những người yêu nước không cộng sản bị đàn áp dã man. Cơ sở Đảng bị tổn thất nặng nề. Hàng ngày, khắp nơi đều có “máu đổ đầu rơi” đúng nghĩa đen (Những vụ chặt đầu xảy ra khắp nơi trong vùng tạm chiếm.).

Sự chịu đựng của dân đã đến giới hạn cuối cùng, họ đòi “nợ máu phải trả bằng máu”. Tất cả nông dân xã Hòa Hội, tỉnh Tây Ninh đều ký tên vào bức tâm thư gởi lên Bác Hồ xin: “Nhân dân bị khủng bố, cán bộ bị giết hại, xin cho bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc trở về đánh giặc cứu dân”.

Trong một cuộc mít tinh, một ông cụ đã phẫn uất và khóc: “Bác Hồ ơi, Mỹ-Diệm nó độc ác quá lắm rồi, Bác cho phép đồng bào băm nát đầu chúng nó”. Tỉnh Thủ Dầu Một có 30 lão nông gởi thơ lên Xứ ủy, tỏ ý bất bình, nghi ngờ, chất vấn gay gắt: “Tình hình như vậy không biết Xứ ủy có báo cáo lên Trung ương, lên Bác Hồ hay không?”. Các cụ yêu cầu Xứ ủy đề nghị lên Bác Hồ cho đấu tranh võ trang trở lại, nếu không thì người dân sẽ bị chết dần chết mòn và không thể nào thắng Mỹ.

Ý nguyện đó của bà con nông thôn miền Nam đã thôi thúc các cấp ủy Đảng ở miền Nam, khu 5 và những đảng viên hoạt động ở cơ sở mạnh dạn lãnh đạo quần chúng tìm kiếm/chế tạo vũ khí hoặc tước súng giặc đánh giặc, tăng cường võ trang, chủ động nổi dậy ở những nơi có đủ điều kiện, dù chưa có ý kiến của Trung ương ở ngoài Bắc.

Nổi bật nhất trong thời kỳ này là các sự kiện quan trọng: Tại Cà Mau, hàng chục vạn dân kéo vào rừng U Minh và Năm Căn lập nên hàng chục “làng rừng” công khai chống Mỹ-Diệm, lập vùng tự do, tự quản lý, xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng để chống giặc.

Tại Thủ Dầu Một, lực lượng võ trang cách mạng đã tiến lên tiêu diệt được chi khu quận lị Dầu Tiếng tịch thu được rất nhiều súng đạn và tiền trong 10 két sắt. Tại miền Tây Quảng Ngãi đã diễn ra Đại hội Gò Rô của đồng bào các dân tộc kêu gọi các dân tộc anh em đoàn kết xung quanh cụ Hồ, đồng lòng hợp sức đánh đổ Mỹ-Diệm. Mọi người không phân biệt dân tộc, già, trẻ, gái, trai…. phải sẵn sàng chuẩn bị nổi dậy giành lại chính quyền.

B. Hội nghị Bình Than của Thời đại Hồ Chí Minh

Bước vào năm 1959, cách mạng Việt Nam đứng trước một quyết định hệ trọng. Ngày 13/1/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng khai mạc tại thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.

Dự Hội nghị có nhiều nhà lãnh đạo các địa phương Khu 5 ở miền Nam. Các ông Phan Văn Đáng, Phạm Văn Xô đại biểu Xứ ủy Nam Bộ; các ông Trần Lương, Võ Chí Công đại biểu khu 5 đã vượt qua hàng ngàn cây số và đồn bót, kịp tới Hà Nội dự hội nghị. Các đồng chí lãnh đạo địa phương đã đưa về đây các tin tức nóng hổi, các cập nhật tình hình mới nhất, và quan trọng là nguyện vọng, ý muốn của nhân dân và các đảng bộ miền Nam.

Hội nghị Trung ương đã nghiên cứu trao đổi phân tích kỹ về tình hình địch – ta, khảo sát khả năng và lực lượng cách mạng, tìm ra đường lối, phương pháp cách mạng thích hợp nhất cho miền Nam.

Vấn đề nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng, vấn đề kẻ thù đều nhanh chóng có được sự đồng thuận. Còn những vấn đề gay cấn mà mọi người tranh luận gay gắt nhất là: 1. Đánh giá sức mạnh, tiềm lực, khả năng, ưu khuyết điểm của đế quốc Mỹ. 2. Vấn đề cách mạng miền Nam, chiến tranh cách mạng và vấn đề bảo vệ hòa bình nói chung. 3. Phương pháp cách mạng ở miền Nam.

Trong lịch sử Đảng tới thời điểm đó chưa có hội nghị nào của Trung ương mà được chuẩn bị công phu, trao đổi sôi nổi, kỹ càng như hội nghị này. Mọi người ít ăn uống, ít nghỉ ngơi, bàn bạc tranh luận cả ngày. Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương tiến hành suốt cả tháng từ giữa tháng giêng đến giữa tháng tháng 2 năm 1959.

Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền Nam cuối cùng được đề ra như sau: Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Về con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Trung ương Đảng nhận định không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là dùng bạo lực cách mạng.

Về chế độ thống trị của Mỹ-Diệm dựa vào bạo lực phản cách mạng để tồn tại, mà ta thì phải dựa vào lực lượng quần chúng, lấy lực lượng quần chúng để đánh đổ kẻ thù, cho nên muốn đạt được mục tiêu đó, cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ. “Phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng”.

Về khả năng hòa bình phát triển, Bộ Chính Trị cho rằng khả năng này hầu như không có, vì Mỹ đã quyết tâm bám lấy miền Nam, sẽ không bao giờ có chuyện họ giải tán ngụy quyền, từ bỏ các hành động xâm lược và tội ác chiến tranh.

Quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam là quá trình xây dựng, củng cố phát triển phong trào quần chúng đấu tranh chính trị từ hình thức thấp đến hình thức cao, đẩy lùi địch từng bước tiến đến làm lay chuyển tận gốc chính quyền đó, “cuối cùng phát động quần chúng khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm khi có thời cơ thuận lợi ở trong nước và trên thế giới”.

Ông Hai Văn và Hai Xô hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ trương đấu tranh võ trang tại miền Nam, Người nói: “Dù sao cũng không thể để cách mạng chịu tổn thất hơn nữa. Xứ ủy các chú có là Đảng không? Trung ương ở xa, các chú phải tùy tình hình, cân nhắc kỹ lưỡng mà quyết định và chịu trách nhiệm”. Các đồng chí miền Nam hỏi về khả năng phải tiến hành chiến tranh cách mạng, Bác Hồ nói đại ý: Mỹ-Diệm quá tàn ác, không đánh không được. Đánh Pháp ta phải vừa đánh vừa học, đánh Mỹ cũng phải vừa đánh vừa học, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi.

Nói chung, hội nghị này đã quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng võ lực để đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm. Sau khi Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua, quân dân miền Nam từ các hình thức đấu tranh thuần túy chính trị đã chuyển sang hình thức đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh võ trang, từ đó cách mạng miền Nam mới có chuyển cơ tích cực.

Tại Bến Tre, Nghị quyết 15 đã làm quân dân vỡ òa, ai cũng reo mừng trong nước mắt rằng cuối cùng cũng cho đánh rồi. Từ nay quân dân miền Nam không còn phải chịu đựng, phải giấu súng trốn tránh nữa, mà có thể công khai dùng võ lực tự vệ, bắn trả, chống càn, chống trả các đợt tấn công, càn quét của quân giặc. Sau quyết định này, các xưởng quân giới mọc lên nhiều nơi ở nông thôn miền Nam.

Già trẻ gái trai Sóc Trăng tham gia chế tạo võ khí thô sơ để chống càn
Một góc công binh xưởng Sóc Trăng sản xuất mìn, đạp lôi
Công trường chế tạo vũ khí đánh Mỹ của tỉnh Bến Tre
Một công binh xưởng ở Bình Phước sản xuất vũ khí để đánh giặc
Riêng ở Bến Tre nhiều súng ngựa trời đã được chế tạo. Đây là loại súng tự chế có sức sát thương cao, để bù đắp sự thiếu thốn vũ khí của lực lượng võ trang miền Nam trong giai đoạn miền Bắc chưa tiếp viện. Các vũ khí giả, súng giả, đại bác giả được làm từ…. cây dừa, chất liệu dừa của đồng bào xứ dừa Bến Tre đã thành công gây sợ hãi cho một số đồn giặc và thuyết phục được họ đầu hàng, sau đó quân dân Bến Tre lại lấy súng của họ đi đánh những đồn giặc không chịu đầu hàng. Lấy súng giả tước súng thật, rồi dùng súng giặc đánh giặc.

C. Phất cờ khởi nghĩa

Đêm 2 tháng 1 năm 1960, ban lãnh đạo tỉnh Bến Tre họp tại xã Tân Trung, quyết định: “Phát động một tuần lễ toàn dân đồng khởi, diệt ác ôn, phá thế kìm kẹp, giải phóng nông thôn, làm chủ ruộng vườn”. Đồng thời quyết định khởi nghĩa từ ngày 17 tháng 1 đến ngày 25 tháng 1.

Ngày 17/1/1960, theo kế hoạch đã định, phong trào Đồng Khởi (tức là cùng nhau khởi nghĩa) bùng nổ đúng như dự kiến tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre). Chỉ sau hai ngày, 3 xã trên hoàn toàn giải phóng. Trung đội quân Giải phóng đầu tiên của Bến Tre được thành lập tại vườn Dừa, xã Bình Khánh. Sau đó, phong trào chuyển hướng sang Giồng Trôm, tập trung ở các xã trọng điểm Châu Hòa, Châu Bình và Phong Mỹ dưới sự chỉ huy trực tiếp của nữ tướng Nguyễn Thị Định.

Từ thành công trên, trong vòng 1 tuần (17 đến 24 tháng 1), 47 xã ở Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú nổi dậy. Lực lượng nổi dậy làm chủ nhiều ấp, trong đó hoàn toàn làm chủ 22 xã.

Ngày 24 tháng 2, Mỹ-Diệm phản kích, huy động hơn 3000 quân tấn công 3 xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp. Các du kích xã đã dùng các vũ khí thô sơ chống trả, điển hình là súng ngựa trời. Cuộc tấn công thất bại. Từ Bến Tre, phong trào Đồng khởi lan khắp miền Nam, làm lung lay các ngụy quyền ở địa phương.

Ngày 25/3/1960, hơn 10.000 quân hỗn hợp Thủy – Bộ – Biệt kích – Dù tiến vào vây đánh nhiều xã ở huyện Mỏ Cày. Trước tình hình trên, lãnh đạo Bến Tre đã dùng một kế hay, phát động quần chúng, đặc biệt là phụ nữ, bao gồm những người là bà, mẹ, người nhà của các sĩ quan và binh lính ngụy ở địa phương. Hàng vạn phụ nữ này tràn ngập những vùng tạm chiếm làm náo loạn sự ổn định của giặc, họ đặc biệt tụ tập ở những nơi có phóng viên chiến trường người nước ngoài để thu hút sự chú ý của dư luận bạn bè quốc tế, đồng thời làm cho Mỹ-ngụy sợ dư luận quốc tế mà không dám khinh suất gây tội ác hay đàn áp quá hung bạo.

Trước "kế hiểm" này, các sĩ quan Mỹ-ngụy bó tay nhìn nhau, lúng túng không biết phải giải quyết ra sao mới ổn, binh lính ngụy dù ác đến mức nào cũng không thể ngang nhiên bắn giết những người nhà đang chửi mắng, quở trách, kêu gọi họ trở về với quốc gia dân tộc, kêu gọi họ trở súng bắn lại Mỹ rồi quay về vùng giải phóng, trước bao nhiêu ống kính quay phim, nhiếp ảnh của bao nhiêu phóng viên chiến trường nước ngoài đang tác nghiệp.

Thế là các sĩ quan ngụy đành phải bó tay, lắc đầu gọi họ là “đội quân đầu tóc”, về sau danh từ này dần tam sao thất bản thành “đội quân tóc dài”, từ đó nó trở thành danh từ thông dụng để gọi phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam Việt Nam, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ.

Tháng 6/1960, các chi bộ Đảng quyết định phát động Đồng khởi từ Bến Tre và miền Tây lan ra toàn Nam Bộ. Ngày 24/9/1960, quân dân Bến Tre phát động cuộc Đồng khởi lần 2. Bấy giờ, phong trào không chỉ diễn ra ở những nơi họ nghĩ là có thể thắng thế mà còn dám phát động ngay cả ở những vùng trọng yếu khác.

Cùng thời gian với Bến Tre, tỉnh Kiến Phong cũng nổi dậy. Các đại đội 272, 274 đã có các trận đánh tiêu diệt và làm bị thương 25 lính giặc, chiếm trụ sở xã, thu súng và làm chủ xã Mỹ Hòa. Đến ngày 20/1/1960 thì quân dân Kiến Phong đã tiêu diệt, làm bị thương 165, chiêu hàng 40 lính ngụy.

Trong khi ngụy quyền địa phương đang mãi lo đối phó với Mỹ Hòa bối rối trở tay không kịp thì huyện Hồng Ngự nổi dậy. Bắt đầu từ 3 xã Tân Thành, Thường Thới, Thường Phước. Đại đội 271 diệt đồn Cả Cái, giải phóng Tân Thành. Tại Cao Lãnh, lực lượng võ trang xã Bình Thạnh bức rút đồn Bà Cò, làm chủ 1 ấp, thuộc xã Đốc binh Kiều.

Từ ngày 6/3/1960, phong trào càng lan rộng ra các tỉnh. Tại Cà Mau, tiểu đoàn Ngô Văn Sở phục kích đánh tan và bắt sống 150 lính, tịch thu 133 súng, giải phóng nhiều xã. Tại Sóc Trăng, sáu tháng đầu năm 1960, những vùng nông thôn các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Gia Rai, Hồng Dân, Vĩnh Lộc đều lần lượt trở thành vùng giải phóng.

Các sự kiện trên chủ yếu ở mặt trận Tây Nam Bộ. Nhưng mặt trận Đông Nam Bộ cũng không kém phần quyết liệt. Xứ ủy Nam Bộ sau khi kiến nghị với Trung ương Đảng nâng cao đấu tranh võ trang đã quyết định mở một trận đánh lớn. Mục tiêu là cướp thêm vũ khí Mỹ để nhanh chóng phát triển lực lượng, mở rộng phong trào Đồng khởi, từ Tây Nam Bộ lan sang Đông Nam Bộ.

Địa điểm được chọn là bốt Tua Hai, tiền tiêu án ngữ biên giới Việt Nam – Campuchia, nằm trên đường 22, các thị xã Tây Ninh 5 km về phía bắc. Lực lượng ngụy có 2 trung đoàn, 1 chi đội thiết giáp, 1 đại đội pháo. Lực lượng khởi nghĩa gồm 1 tiểu đoàn và một bộ phận lực lượng tàn binh giáo phái trước đây ở trong các nhóm quân đội Cao Đài, bắt đầu tấn công từ ngày 26/1/1960. Lính ngụy thua to, lực lượng Giải phóng thu được 1.500 súng.

Trận Tua Hai mở đầu cho cuộc đồng khởi ở Đông Nam Bộ. Sau Tua Hai, quân dân Tây Ninh phá sập hơn 50% đồn bốt, giải phóng 24 xã và làm chủ nhiều phần tại 19 xã khác. Ngày 16/3/1961, tiểu đoàn 800 và quân dân miền Đông Nam Bộ tấn công chi khu quân sự Hiếu Liêm, hôm sau tấn công bốt An Lạc, hỗ trợ quần chúng các nơi nổi dậy.

Tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi về cơ bản đã làm tê liệt cơ cấu ngụy quyền cơ sở ở nông thôn trên gần như toàn miền Nam. Trong 2.627 xã toàn miền Nam, người dân địa phương đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã (lúc này Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam chưa thành lập), đồng thời làm tê liệt ngụy quyền cơ sở ở hầu hết xã khác.

Dân số vùng giải phóng toàn miền Nam có khoảng 6,5 triệu người trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Phong trào nổi dậy của người dân Đông – Tây Nam Bộ đã giáng một đòn mạnh vào kế hoạch lập Khu Trù Mật và chính sách “cải cách điền địa” của Mỹ-Diệm.

Trong một báo cáo gửi tổng thống Mỹ John F. Kennedy, CIA nhìn nhận: “Chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1960 tình hình an ninh trong nước vẫn tiếp tục ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng. Toàn bộ vùng nông thôn ở phía nam và tây nam Sài Gòn cũng như một số vùng phía Bắc đã nằm trong quyền kiểm soát rất lớn của Việt Cộng.”

“Cố vấn” Mỹ và lính ngụy đang dừng chân nghỉ giải lao. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, các “cố vấn” Mỹ thực tế không có vai trò của một người cố vấn thật sự (tham vấn, tư vấn, mưu sĩ, góp ý), mà là vai trò của một người chỉ huy về quân sự và chính trị.
Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam Việt Nam

Để tránh thất bại ở miền Nam Việt Nam sau cao trào Đồng khởi, trước tình trạng lung lay, rạn nứt và nguy cơ sụp đổ của hệ thống thuộc địa kiểu mới, người Mỹ đã chuyển sang chiến lược chiến tranh đặc biệt (Staley-Taylor plan), tăng số quân từ 1.077 tướng lĩnh, sĩ quan chỉ huy lên 10.962 tướng tá, sĩ quan, nhân viên quân sự (1962). Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) được thành lập tại Sài Gòn ngày 8/2/1962 để chỉ huy chung cho tất cả lực lượng quân đội chiến đấu ở Việt Nam.

Chiến tranh đặc biệt là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Hoa Kỳ, được tiến hành chủ yếu bằng quân lính bản xứ, dưới sự chỉ huy của hệ thống “cố vấn” từ đông đảo các cấp tướng lĩnh và các viên chỉ huy người Mỹ, và dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ để tiến hành đánh dẹp trong những vùng tạm chiếm và tấn công lấn chiếm những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam.

Chiến lược chiến tranh đặc biệt được thực hiện bằng kế hoạch Staley-Taylor, được công bố vào tháng 5/1961. Nội dung là bình định miền Nam trong 18 tháng. Kế hoạch bao gồm 3 biện pháp chiến lược:

1. Tăng cường huấn luyện ngụy quân, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng và các loại vũ khí mới mẻ, tối tân hơn để nhanh chóng tiêu diệt chủ lực kháng chiến địa phương. Sĩ quan Mỹ, với danh nghĩa "cố vấn", chỉ huy các đơn vị chiến đấu của ngụy quân từ cấp đại đội trở lên.

2. Củng cố ách cai trị ở các đô thị tạm chiếm, kềm kẹp và dập tắt nổi dậy ở nông thôn bằng các chiến dịch tảo thanh, càn quét và các loại hình trại tập trung để "tát nước bắt cá". Đồng thời gây hấn, xâm lấn vùng giải phóng.

3. Tìm cách ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, ngăn chặn các con đường chi viện Bắc - Nam, cô lập quân kháng chiến miền Nam.

Mỹ-Diệm tăng cường bắt lính, tăng nhanh số lượng ngụy quân. Lính ngụy được trang bị hiện đại các vũ khí mới, các vũ khí do thực dân Pháp để lại bị cất vào kho, và sử dụng phổ biến các chiến thuật mới, như Trực thăng vận, Thiết xa vận.

Theo sự chỉ huy của “cố vấn” Mỹ, quân ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt quân du kích miền Nam, tiến hành nhiều hoạt động gởi biệt kích, thám báo ra miền Bắc, hoạt động kiểm soát, phong tỏa biên giới và vùng biển, củng cố sự chia cắt Bắc – Nam.

Để đáp ứng yêu cầu khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng và chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ, ngày 15/2/1961, các lực lượng võ trang miền Nam hợp nhất thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra mắt đồng bào. Trung ương Cục miền Nam cũng được thành lập vào tháng 1/1961 thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ. Quân Giải phóng miền Nam cũng là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được xem là QĐNDVN của miền Nam Việt Nam.

Quân Giải phóng miền Nam mở rộng các hành động chống Mỹ, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh võ trang, kết hợp khởi nghĩa với công kích, trên cả ba vùng chiến lược (thành thị, nông thôn, miền núi), và bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận.

Tại đô thị và nông thôn, các lực lượng biệt động thành và dân quân - tự vệ - du kích liên tục đánh úp, đánh hậu tập vào các mục tiêu quân sự của Mỹ. Khi giặc thế mạnh, ta thất thế thì các chiến sĩ rút nhanh, tản ra nhanh, quay về bưng biền, chiến khu, ẩn thân trong nhà dân, địa đạo. Quân đội kháng chiến đã phát huy cao độ truyền thống, kinh nghiệm đánh giặc cổ truyền của ông cha, và phát huy hiệu quả nhất chiến lược chiến tranh nhân dân và chiến thuật du kích.

Giặc Mỹ không có cách nào thắng lớn được 1 trận mà gây tổn thất lớn cho sinh lực quân Giải phóng. Quân Mỹ thắng nhỏ lẻ tẻ thì nhiều, nhưng hiệu quả thực chất thì không được bao nhiêu. Quân kháng chiến không ngừng quấy rối làm "điên đầu" Mỹ-Diệm, và giặc Mỹ không có cách nào tập trung binh lực lại được để đánh một trận lớn, vì bị các lực lượng biệt động và du kích quấy nhiễu, phá rối liên tục, khiến họ ăn không ngon, ngủ không yên, mà không có cách làm gì được, không nghĩ ra cách nào đối phó hiệu quả.

Họ cũng không dụ được quân kháng chiến tập trung quân lực lại để họ quét một mẻ lớn. Sau này họ thử dùng con mồi Khe Sanh để thu hút binh lực Việt Nam lại để hy vọng một "Điện Biên Phủ đảo ngược", nhưng kết quả bất thành. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các nhà quân sự Việt Nam đã nhìn thấy hết các ý đồ chiến lược đó.

Lưu ý trong chiến tranh Pháp - Việt, chính người Pháp cũng lâm vào tình cảnh tương tự người Mỹ sau này, đó là quân đội Pháp không có cách nào tập trung quân lại để đánh một trận lớn, và cũng không có cách nào dụ được quân đội Việt Minh tập trung binh lực lại để họ đánh một trận lớn, để gây thiệt hại lớn cho Việt Minh. Do đó họ mới dùng con mồi Điện Biên Phủ như là một sự thách thức, thách đấu để quyết chiến cho xong.

Các bộ óc quân sự kiệt xuất nhất của Pháp và đồng minh Hoa Kỳ khi đó đã tính toán cẩn thận đủ đường, nhưng họ bỏ quên một vấn đề: Không ai nghĩ tới nước cờ "kéo pháo lên cao" của Việt Nam, bởi vì quá sức người, bất khả thi.

Khai thác và tận dụng thiếu sót đó của Pháp - Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã "tương kế tựu kế", cho người Pháp nghĩ rằng ta đã trúng kế của họ, hoặc nhìn không ra mưu kế dụ địch của họ, quyết định đánh.

Tuy nhiên, do Điện Biên Phủ quá kiên cố đến mức nhiều chuyên gia quân sự quốc tế đã đánh giá là một căn cứ "bất khả xâm phạm". Và các kế hoạch dự phòng trước rủi ro của Pháp - Mỹ quá cẩn thận, vững chắc. Do đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại phải thay đổi kế hoạch bất ngờ và đã làm nên một chiến công hiển hách gây chấn động cả thế giới.

Trở lại với kháng chiến chống Mỹ, quân Giải phóng đã giành thắng lợi mở đầu trong trận Ấp Bắc ở Mỹ Tho vào năm 1963. Tại đây, với số quân ít hơn địch 10 lần, quân Giải phóng đã đánh bại cuộc hành quân càn quét của trên 2 ngàn lính ngụy do “cố vấn” Mỹ chỉ huy và được pháo binh, trực thăng, xe tăng, xe bọc thép của Mỹ trợ chiến, nối tiếp truyền thống "dĩ đoản chế trường" (lấy ngắn thắng dài), "dĩ nhu chế cương" (lấy mềm dẻo thắng cứng rắn), "lấy đoản binh thắng trường trận", "lấy yếu thắng mạnh", "lấy ít địch nhiều" của cha anh.

Trên mặt trận “chống bình định”, giữa quân Việt – quân Mỹ, cũng như giữa quân dân địa phương và ngụy quyền cơ sở, đã diễn ra cuộc đấu tranh dai dẳng, giằng co quyết liệt giữa lập và phá trại tập trung. Từng mảng lớn Khu Trù Mật, Khu Dinh Điền, Ấp Chiến Lược, Ấp Tân Sinh đã bị quân dân địa phương phá và nhiều trại sau đó trở thành làng chiến đấu.

Phong trào đấu tranh chính trị và cả đột kích vũ trang vào các mục tiêu quân sự dâng cao ở các đô thị và nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Đặc biệt ở 3 thành phố lớn nhất miền Nam là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau, đâu đâu cũng có phong trào tranh đấu thu hút đông đảo quần chúng, nhất là giới Phật tử, các tầng lớp học trò, sinh viên tham gia. Các phong trào này đã góp phần quyết định làm lung lay chế độ ngụy quyền, buộc Mỹ phải đi đến quyết định “thay ngựa giữa dòng” để bảo vệ hệ thống thuộc địa kiểu mới.

Đồng bào Sài Gòn biểu tình tại chợ Bến Thành phản đối chính sách đàn áp của Mỹ-Diệm.
 A. “Diệm must go”

Trong một thuộc địa kiểu mới, kẻ xâm lược lẽ ra không trực tiếp quản lý và tham chiến, mà là dựng lên, nuôi lớn, huấn luyện, trả lương, cung cấp trang bị, và ủy quyền cho các tay sai trực tiếp tham chiến và quản lý, còn người chủ kiểm soát từ bên ngoài, giám sát và đánh giá xem tay sai có làm việc hiệu quả không. Trường hợp ở Việt Nam, người bầu show Hoa Kỳ phải ra sân khấu là vì các diễn viên dưới tay họ quá vô dụng, thậm chí muốn tự diễn theo ý riêng, không tuân thủ kịch bản, nếu họ không trực tiếp vào làm thì tình hình sẽ ngày càng xấu.

Bên cạnh đó, ông chủ Mỹ ngày càng chán những cách làm kém chính trị, độc đoán, quá khích, cuồng tín, những hành động trắng trợn, lộ liễu gây tai tiếng, đàn áp tôn giáo, tấn công Phật giáo và phân biệt đối xử với các tín hữu Cao Đài, Hòa Hảo (không phải lực lượng võ trang), chủ yếu để bảo vệ lợi ích Công giáo và lợi ích riêng của gia tộc họ Ngô. Người Mỹ dần không còn kiên nhẫn với Diệm.

Lợi ích tôn giáo và lợi ích gia tộc ở miền Nam Việt Nam phải nằm dưới lợi ích của Mỹ. Một khi lợi ích tôn giáo và gia tộc làm ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chiến lược của Mỹ, đến mục tiêu chính trị của Mỹ, đến mục đích xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thì họ sẽ phải ra tay, thanh trừng, giải quyết, thay thế những quân cờ vô dụng, làm lại một ván cờ khác.

Chính nguyền Ngô Đình Diệm đã bất lực trong nhiệm vụ chống phong trào giải phóng dân tộc, chia cắt đất nước và chống cộng sản được Mỹ ủy nhiệm. Ông ta quản lý theo phong cách độc tài, độc đoán và bổ nhiệm toàn người nhà với nhau nắm các chức vụ và vai trò quản lý quan trọng, do đó gây mất lòng những tay sai khác của Mỹ, họ liên tục nói xấu Diệm với người Mỹ.

Trước tình hình đó, Hoa Kỳ đành quyết định “thay ngựa giữa dòng” để vãn hồi sự ổn định chính trị ở Sài Gòn cũng như trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam. Và cũng là để bảo vệ “uy tín”, hình ảnh, “thương hiệu”, danh dự nước lớn của họ, vì không ai muốn làm một chủ nhân hoặc có danh nghĩa "đồng minh" với những kẻ tai tiếng khắp thế giới về độc tài gia đình trị, tàn ác, đàn áp tôn giáo, dọa nướng sư tăng, phát ngôn bừa bãi ngu ngốc không biết tự kiềm chế, làm cho danh dự và uy tín nước Mỹ cũng bị ảnh hưởng tiêu cực.

Hồ sơ Lầu Năm Góc (The Pentagon Papers – Tên gốc là United States – Vietnam Relations, 1945-1967: A Study Prepared by the Department of Defense, tạm dịch: Quan hệ Mỹ – Việt, 1945-1967: Một nghiên cứu được chuẩn bị bởi Bộ quốc phòng), do chuyên viên phân tích quân sự của Bộ quốc phòng Mỹ và Lầu Năm Góc, sĩ quan Daniel Ellsberg giao cho nhà báo Thời báo New York Neil Sheehan có những đoạn như sau:

“Sự bất mãn với chế độ Diệm đã trở thành cấp bách trong tháng 8 năm 1963. Nhà nước (Hoa Kỳ) ngày 8/21/1963 đã ghi nhận rõ vấn đề này là nghiêm trọng. Chính phủ của Diệm đã xông vào ngôi chùa Phật giáo vào ngày hôm đó. Các vấn đề chưa được giải quyết giữa chính phủ và các nhà sư Phật giáo đã tiếp tục kể từ mùa xuân năm 1963, khi một số tu sĩ, trong đó có Quảng Đức, tự thiêu. Bà Nhu, em dâu của tổng thống, đã nói một cách khinh miệt rằng các nhà sư là “thịt nướng của Phật giáo” và hứa cung cấp thêm xăng. Các hành động đàn áp trong tháng 8 đã cho thấy rằng “Diệm phải đi.”

“Tổng thống Kennedy đã nhận được một cuộc họp báo về ngày 27 tháng 8 năm 1963. William Colby, một trong các chuyên gia CIA về Việt Nam, trong một cuộc báo cáo liên quan của 2 vị tướng Việt Nam Cộng hòa ngày hôm trước. Họ đã báo cáo: ‘Tình hình cho một cuộc đảo chính là thuận lợi và dự báo nó sẽ kéo dài một tuần.’”

“Trong cuộc họp này, Đại sứ Nolting quan sát thấy rằng ‘các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa không có lá gan của Diệm hay Nhu’.”

“Hai ngày sau đó, tổng thống (John F. Kennedy) đã gởi một tin nhắn đến Henry Cabot Lodge, Jr, đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam. Tin nhắn đã cho thấy rõ ràng rằng John F. Kennedy đồng ý kế hoạch của các tướng Việt Nam Cộng hòa nhưng bảo lưu quyền, với thẩm quyền của một Tổng tư lệnh, để thay đổi quyết định vào phút cuối cùng.”

“Một bản lưu của CIA cho biết đã cố vấn cho nhóm Trần Kim Tuyến cố gắng ám sát Nhu vào ngày 13/9/1963, nhưng đã “thất bại khi các ngòi nổ bị hỏng”. Mặc dù vậy, nhóm đã tự tin “cuộc đảo chính cuối cùng sẽ thành công”. Mục tiêu, trong số những người khác, là “nhà Ngô”.”


Theo bản báo cáo 1034 từ Sài Gòn gởi đến Washington vào ngày 19/9/1963, nằm trong các hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và lưu trữ trong cơ quan NARA của chính phủ Hoa Kỳ, thì:

“Một báo cáo của CIA, chuẩn bị cho tổng thống (Hoa Kỳ) vào ngày 19/9/1963, chỉ ra rằng quân đội và tình báo người Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã chia rẽ quan điểm về vấn đề có nên đảo chính hay không." Trang thứ hai của bản ghi còn cho biết: "Nhóm CIA ủng hộ cuộc đảo chính quan tâm nhất đến việc đưa lên một chính phủ mà họ có thể điều khiển, điều đó hợp lý hóa những khoản tiền khổng lồ mà họ đã bỏ ra.”

Nữ phóng viên chiến trường Beverly Deepe Keever, trong hồi ký Death Zones and Darling Spies, seven years of Vietnam War reporting (Tử địa và các điệp viên đáng yêu, bảy năm làm phóng sự về Chiến tranh Việt Nam), Đại học Nebraska mới xuất bản năm 2013, đã cho biết: “Khi Lodge (Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge, Jr) đến sân bay Tân Sơn Nhứt, tôi đã cảm nhận thấy ông ta đã quyết định rằng ‘Diệm phải đi’.”

Tuần báo Newsweek số ra ngày 24/12/2001, trong bài viết về ảnh hưởng của CIA đối với các nhà lãnh đạo trên thế giới, tác giả khi nhắc đến cái chết của Ngô Đình Diệm, đã viết một câu bên cạnh bức hình sau:



Có thể hiểu câu tiếng Anh nói trên như sau: Năm 1963, chính phủ Kennedy đã nhận thấy sự tồn tại của “tổng thống Nam Việt Nam” Ngô Đình Diệm là có lợi cho cộng sản và đã quyết định “Diệm phải đi”. CIA đã thực hiện cuộc ám sát kết quả đưa đến cái chết của ông ta vào tháng 11 năm 1963.

Đại tá Leroy Fletcher Prouty trong sách The secret team: The CIA and its allies in control of the United States and the world (Đội ngũ bí mật: CIA và các đồng minh kiểm soát Hoa Kỳ và thế giới) do Prentice-Hall xuất bản năm 1973 đã cho biết điệp viên CIA, trung tá Lucien Conein đã gặp và trả công tận tay 40.000 USD cho binh lính Sài Gòn đảo chính lật đổ chính quyền Diệm.

Cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, Bruce O. Solheim, giáo sư sử học ở Đại học Citrus, trong sách Vietnam War Era: A Personal Journey (Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam: Một hành trình riêng), do Đại học Nebraska xuất bản năm 2008, đã cho biết: “Với tầm nhìn hẹp, chính phủ John F. Kennedy đã phê duyệt cuộc đảo chính và giết Diệm và Nhu, sự kiện này đưa đến một khoảng trống lãnh đạo ở miền Nam Việt Nam mà hầu như chưa bao giờ được bù đắp. Người Mỹ đã bước vào và tạo ra một chính quyền con rối lệ thuộc.”

Dù có vài bất đồng ý kiến với nhau về việc có nên lật Diệm hay không, và lật bằng hình thức nào, song chính giới Hoa Kỳ vẫn đi đến quyết định đảo chính. Sau khi xong việc, John F. Kennedy đã "nước mắt cá sấu" tỏ ra "thương tiếc" Diệm trước báo giới và truyền thông, để đánh lừa những kẻ ngu dốt, ngây thơ, nhẹ dạ.

Sau khi Mỹ “thay ngựa giữa dòng”, quân Giải phóng đã mở chiến dịch tiến công ở miền Đông Nam Bộ, đánh thắng trận Bình Giã, về cơ bản đã làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Đến đây kế hoạch Staley-Taylor đã không còn hiệu quả. Giới cầm quyền Mỹ bắt đầu đề ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, khi Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tiến vào Đà Nẵng, kế hoạch Staley-Taylor và chiến lược chiến tranh đặc biệt đã hoàn toàn bị phá sản. Chiến tranh Mỹ – Việt bước sang giai đoạn mới, giai đoạn Mỹ kéo đại quân đến Việt Nam trực tiếp chiến đấu, dội bom, càn quét, bình định, mở rộng chiến tranh xâm lược, thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ với nòng cốt là chiến thuật Tìm và Diệt của đại tướng William Westmoreland. Đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và một số vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam.

Đại tướng 4 sao William Westmoreland, "kiến trúc sư" của chiến thuật Tìm & Diệt (Search & Destroy).
Sau này Việt Nam tiếp tục đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ, chiến lược Phi Mỹ hóa - Việt Nam hóa chiến tranh. Ngày 18/4/1975, tổng thống Gerald Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Việt Nam.

Ngày 20/4/1975, Chính phủ Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức và đưa lên cụ Trần Văn Hương, với hy vọng rằng có thể thuyết phục được Quốc hội Mỹ thông qua gói viện trợ khẩn cấp để cứu nguy tay sai, tiếp tục cuộc chiến, bởi vì ông Thiệu lâu nay tuy được lòng Chính phủ Mỹ, nhưng không được lòng nhiều người trong Quốc hội Mỹ với tình trạng tham nhũng thối nát mà như ông Hương đã phải thú nhận: "Diệt hết tham nhũng thì lấy ai ra mà làm việc".

Tuy nhiên, đến ngày 23/4/1975, dù Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức nhưng Quốc hội Mỹ sau nhiều lần tranh luận đã quyết định không đổi ý, không viện trợ khẩn cấp, Chính phủ Mỹ đành tuyên bố chiến tranh kết thúc.

Ngày 30/4/1975, Graham Martin rời Việt Nam từ 4:58 sáng. 7 giờ sáng, những người lính cuối cùng của Mỹ bắt đầu rời khỏi Việt Nam. 7:53 sáng, chiếc trực thăng cuối cùng của quân đội Mỹ chở 10 người lính Thủy quân Lục chiến rời khỏi Việt Nam. Đến 11:30 trưa cùng ngày, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh, ngụy quyền hoàn toàn sụp đổ, ngụy quân giải tán.

Sự kiện 30/4/1975 đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam và ban cho nước Mỹ một thất bại chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ.

Thiếu Long