Trên thế giới này, vũ khí quân sự để phục vụ chiến tranh của các quốc gia, dân tộc đều có những bản sắc rất riêng. Bản sắc đặc trưng đó hình thành và phát triển từ lý thuyết (philosophy) và chiến lược (strategy) quân sự của từng quốc gia, dân tộc trong từng thời kỳ khác nhau.
Vũ khí của quân đội Mỹ thời hiện đại có đặc trưng nổi bật là nhiều chức năng, nhiều tác dụng, dựa vào ưu thế chiều sâu. Đặc trưng đó xuất phát từ lý thuyết quân sự dùng ưu thế công nghệ với chất lượng áp đảo ưu thế số lượng của địch thủ. Điều này càng đặc biệt đúng với học thuyết quân sự Rumsfeld mà quân đội Hoa Kỳ đang áp dụng. Trong khi vũ khí của Trung Quốc và Liên Xô / Nga, bắt nguồn từ thực tiễn đất rộng người đông, tài nguyên, nguồn lao động dồi dào, và các lý luận quân sự của Mao Trạch Đông và Stalin, mà đường lối quốc phòng của họ từ trước đến nay nghiêng về phát huy ưu thế chiều rộng.
Việt Nam có diện tích đất liền nhỏ hơn một tiểu bang của Mỹ, nhỏ hơn một tỉnh của Trung Quốc và Nga. Nhưng Việt Nam lại có vị trí chiến lược địa chính trị, địa kinh tế đặc biệt trọng yếu trong khu vực và thế giới. Đất nước Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên và nguồn lao động dồi dào. Chính vì lẽ đó nước ta hàng ngàn năm nay, từ cổ đại, trung đại, cận đại đến hiện đại và ngày nay luôn bị nhiều thế lực mạnh khắp bốn phương tám hướng dòm ngó, "rình rập", chực chờ cơ hội để tìm cách nhảy vào trục lợi, hay cao nhất là xâm lược chính trị quân sự.
Ngay từ hàng ngàn năm trước, công cuộc dựng nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với quá trình giữ nước. Trải qua bao thế kỷ chống ngoại xâm, người Việt Nam đã sớm biết chế tạo, sử dụng và phát triển vũ khí để chống các thế lực thù địch cướp nước và bán nước. Từ đó hình thành một bản sắc đặc thù của vũ khí Việt Nam, với đầy những nét riêng phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Những vũ khí có những đặc sắc riêng thì Việt Nam có nhiều, nhưng trong đó cũng có ít vũ khí thật sự "không giống ai", không ai có hoặc rất hiếm ai có. Bài viết này xin giới thiệu 5 loại vũ khí "không giống ai" này. Góp phần vào công cuộc truyền tải cảm hứng và thông tin về lịch sử nước nhà.
1. Nỏ thần
Ảnh minh họa
Nỏ thần là gọi là theo huyền thoại dân gian. Các nhà khảo cổ, khoa học, sử học gọi vũ khí này là "nỏ liên châu". Một số học giả, nhà nghiên cứu còn gọi là "nỏ liễu" hoặc "nỏ liễn", họ cho rằng đó chính là cách gọi thời xưa của dân ta dựa trên một số tài liệu, tư liệu, thư tịch cổ.
Ví dụ như sách Việt Sử Lược thời Trần ghi rằng Cao Lỗ đã làm được "nỏ liễu", mỗi lần giương nỏ bắn ra được mười phát tên, và mỗi lần giương nỏ ra thì quân giặc sợ khiếp vía. Hay thế phả họ Cao ở Nghệ An ghi rằng thủy tổ của họ chính là Cao Lỗ, gốc Ngòi Sảo, Bắc Ninh, đã chế tạo ra "nỏ liễn".
Lẫy nỏ
Theo góc nhìn kỹ thuật quân sự thì nó chính là một loại nỏ cơ giới, nỏ máy sơ khai, có thể bắn được nhiều mũi tên cùng lúc. Để tạo ra được hiệu quả đó, Lạc hầu (không phải Lạc tướng) Cao Lỗ đã dùng kỹ thuật chế ra lẫy nỏ có chốt giữ liên hoàn. Để một lúc bật lẫy nỏ cho nhiều mũi tên cùng bay ra, các nhà nghiên cứu hiện đại đã suy ra Cao Lỗ đã làm rộng thân nỏ, xẻ chéo nhiều rãnh, đặt những mũi tên chụm lại để khi bật lẫy, mũi tên theo rãnh bay đi.
Nỏ máy này được Cao Lỗ chế tạo dưới thời Âu Lạc và triều đình Thục An Dương Vương, vua đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ. Trong thời kỳ khoa học công nghệ kỹ thuật còn chưa phát triển, Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ của người Việt cổ được nhiều chuyên gia đánh giá là "cỗ súng máy hiện đại". Các Lạc tướng Âu Lạc đã huấn luyện hàng vạn binh sĩ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
Một phần nỏ được khai quật
Bên cạnh phát hiện lẫy nỏ, hàng vạn mũi tên đồng cũng đã đào được ở Cầu Vực, sát chân thành ngoại Cổ Loa. Kho mũi tên đồng với hàng vạn chiếc, trọng lượng gần 110 kg. Đây là loại mũi tên ba cạnh, ba cánh đều nhau, có trụ thân, có chuôi, có họng tra cán và kích thước lớn, được chế tạo hoàn hảo, sắc nhọn. Mỗi mũi tên còn được cắm thêm chuôi bằng tre dài khoảng 1m, làm cân đối trọng lượng để tên bay xa và khả năng sát thương lớn. Tên ba cạnh là loại tên rất đặc thù Việt cổ, có tác dụng làm địch mau tóe ra máu, gây cho chúng bị hoảng loạn tinh thần dễ đi đến vỡ trận. Khác với các mũi tên Trung Hoa chỉ có hai cạnh.
Tên đồng
Có chiếc lẫy nỏ được phát hiện gồm nhiều bộ phận như hộp cò, lẫy cò, hai chốt và thước ngắm. Gần đây, nhóm nghiên cứu của Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á cùng với các nghệ nhân ở Hòa Bình đã phục dựng thành công mô hình chiếc nỏ Cao Lỗ sáng chế, tuy có lẽ chưa được hoàn chỉnh như nỏ thần bản gốc.
PGS Lê Đình Sỹ, nguyên Viện phó Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã cho biết: "Điều quan trọng nhất để tạo nên sức thần của nỏ liên châu là Cao Lỗ đã biết kỹ thuật chế ra những chiếc lẫy nỏ có chốt giữ liên hoàn để một lần bóp cò bắn ra nhiều mũi tên có sức xuyên tốt, vừa giết giặc vừa làm chúng khiếp sợ, đội ngũ rối loạn, tan rã. Đó là điều kỳ diệu bí mật của thứ binh khí thần diệu này."
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á phục dựng mô hình nỏ thần năm 2009
Trong hội thảo khoa học "Danh tướng Cao Lỗ thời dựng nước", với tham luận "Danh tướng Cao Lỗ với việc chế tạo, sử dụng vũ khí cung nỏ thời An Dương Vương", do Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, UBND tỉnh Bắc Ninh và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tóm lược: Cao Lỗ Vương là danh tướng đã giúp vua Thục Phán An Dương Vương dựng nên nhà nước Âu Lạc, hiến kế dời đô xuống đồng bằng và giúp vua xây dựng thành Cổ Loa, chế nỏ liên châu một lần bắn ra nhiều mũi tên. Đây được xem là nỏ thần, thứ vũ khí thần dũng, vô địch để giữ nước với lời nói được truyền tụng "giữ được nỏ thần sẽ giữ được thiên hạ, mất nỏ thần sẽ mất cả thiên hạ". Cao Lỗ có tầm nhìn xa, tỉnh táo và đầy cảnh giác, đầy bản lĩnh để can ngăn nhà vua không sa vào quỷ kế của kẻ thù, dù rằng vì điều đó mà bị vua xa lánh. Nhưng khi đất nước bị xâm lược, Tổ quốc lâm nguy, Người lại ra phò vua, cứu nước, tử tiết để lại danh thơm muôn thuở cho hậu thế.
Chủ tịch nước nói và khẳng định, danh tướng Cao Lỗ là một vị tướng, biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam trong thời đầu giữ nước, được nhân dân sùng kính, thờ phụng ở nhiều nơi trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.
Số phận của loại vũ khí này:
Tác dụng của nỏ liên châu thực chất là để bù đắp cho quân đội sự thiếu hụt về số lượng chiến binh (xạ thủ) và vũ khí (cung nỏ). Nó còn có tác dụng gây hoang mang tinh thần cho những tên lính địch yếu bóng vía khi lần đầu tiên thấy loại vũ khí mới lạ này. Thời cổ đại ta dùng nó được. Nhưng đến thời trung đại trở đi thì loại nỏ này không cần thiết nữa và cũng không phát huy tác dụng nhiều nữa. Bởi vì đến thời trung đại dân số và quân số Đại Việt ngày càng đông hơn. Một nhóm xạ thủ vài chục người mỗi người dùng 1 chiếc nỏ thường vẫn bắn tốt, nếu không nói là tốt hơn, bắn chính xác hơn, và có tính linh hoạt cao hơn, tận dụng được năng lực quân sĩ tốt hơn là sử dụng nỏ liên châu. Lại đỡ tốn kém hơn, giá thành chế tạo một chiếc nỏ liên châu đắt hơn nhiều so với nỏ thường. Nó liên châu còn nặng hơn, khó sử dụng hơn, phải chuẩn bị tốn thời gian hơn và nạp tên lâu hơn nỏ thường. Người dùng nỏ thường dễ huấn luyện hơn người dùng nỏ liên châu.
Hỏa tiễn
Tương truyền thời nhà Lý người ta có thử phục dựng và dùng lại nỏ liên châu trong một số thời điểm khi đánh dẹp trong nước, có kết hợp với mũi tên có kèm theo thuốc nổ làm từ lưu quỳnh và các hóa chất khác, gọi là "hỏa tiễn" (tên lửa) hoặc "lôi tiễn" (mũi tên sấm sét). Đó là một loại mũi tên đặc biệt, được sử dụng khá sớm ở Đại Việt, được cho là có từ thời Lý. Đây là một mũi tên bằng sắt có kích thước lớn hơn mũi tên thông thường, có gắn ống đựng thuốc súng. Hỏa tiễn được đặt trong ống phóng, khi khai hỏa đốt đầu ngòi thì thuốc lửa cùng tên sắt sẽ phóng đi với tốc độ cao và tầm bắn lớn. Mức độ sát thương là rất mạnh.
Nhưng nỏ liên châu đến thời đó chỉ còn mang tính biểu diễn, dọa địch chứ không còn hiệu quả thực chiến cao. Không còn nhiều chỗ dùng cho nó và nó thất truyền dần. Nhất là khi dân trí cao hơn theo thời gian và rút kinh nghiệm, thì binh sĩ các phe không còn bị hù dọa bởi các loại vũ khí trông hoành tráng này nữa, mà vẫn bình tĩnh ứng chiến.
2. Cọc ngầm
Ảnh minh họa cọc Bạch Đằng
Với "công thức" cắm cọc lúc thủy triều xuống thấp, khiêu chiến địch lúc thủy triều dâng cao, và dụ địch đi vào trận địa mai phục khi thủy triều xuống thấp trở lại, khiến tàu chiến địch bị va đập vào cọc nhọn, vỡ trận, bị đánh tan, những chiếc cọc trên sông đã trở thành thứ vũ khí thủy chiến đặc thù Việt Nam mà không ai có.
Vũ khí này lịch sử đã chứng minh rằng nó chỉ phát huy tác dụng và đưa đến thắng cuộc nếu tính toán chuẩn xác và vận dụng thành công được thủy triều, tính toán đúng thật chính xác chu kỳ, thời gian, thời điểm lên xuống của mặt nước. Và chỉ có người dân địa phương, đặc biệt là ngư dân, mới tính toán chính xác được. Do đó yếu tố lòng dân là rất quan trọng khi sử dụng loại vũ khí này. Có thể nói vũ khí này chỉ dùng được trong một cuộc chiến tranh nhân dân.
Năm 938, lần đầu tiên những chiếc cọc vùi thây quân xâm lược là khi thủy quân Nam Hán tấn công nước ta qua ngả sông Bạch Đằng. Danh tướng Ngô Quyền đã huy động quân dân lấy gỗ đẽo thành cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy lòng sông Bạch Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa ngầm, hai bên bờ đặt sẵn phục binh.
Khi nước triều lên ngập bãi cọc, Ngô Quyền dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng rồi trá bại bỏ chạy. Đến khi nước triều rút, ông hạ lệnh cho toàn quân đánh quật mạnh khiến đoàn thuyền địch hốt hoảng tháo chạy. Đến gần cửa biển thì chúng sa vào bãi cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm gần hết và nhận phải nhận lấy kết cục thảm bại, toàn quân tan rã.
Ảnh minh họa
Năm 1077, quân dân nhà Lý dưới sự chỉ huy của danh tướng Lý Thường Kiệt, đã xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt, dựa vào địa lý hiểm trở quanh sông Như Nguyệt (còn gọi là sông Cầu). Dưới bãi sông được bố trí các cọc tre ngầm tạo thành một tuyến phòng ngự hết sức vững chắc.
Quân Lý đóng thành từng trại trên suốt chiến tuyến, quan trọng nhất là ba trại ở Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động. Mỗi trại binh có thể có thêm thủy binh phối hợp. Quân chủ lực do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy đóng ở phủ Thiên Đức, một vị trí có thể cơ động chi viện nhiều hướng và khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long, ngăn giặc tiến về kinh đô.
Kết quả là quân Nam đã chặn đứng được quân Tống, gây cho chúng những tổn hại nặng nề, chúng không thể tiến thêm một bước nào và buộc phải rút quân về nước, kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2 của quân dân Đại Việt.
Cọc gỗ Bạch Đằng năm 1288 của thủy quân Trần Hưng Đạo tại xã Yên Giang, Yên Hưng, Quảng Ninh (phát hiện năm 1959).
Năm 1288, thiên tài quân sự Trần Hưng Đạo noi gương tiền nhân, áp dụng lại trận địa cọc ngầm của Ngô Vương và triều Lý. Lần này, những kẻ bị đánh tan là đạo quân tàn bạo và bách chiến bách thắng Mông Cổ với kết cục là hơn 3 vạn quân giặc và gần 400 chiến thuyền bị chôn xác dưới sông, số còn lại bị quân dân nhà Trần bắt sống chỉ trong vòng một ngày.
Cọc sắt của nhà Hồ
Năm 1406, để đối kháng với 21 vạn quân Minh xâm lược dưới sự chỉ huy của các danh tướng Trương Phụ, Mộc Thạnh, thái thượng hoàng của Đại Ngu (quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ do nhà Hồ đặt) là Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương, noi gương các tiền nhân, đã cho cắm cọc sắt ở các khúc sông hiểm yếu, nhất là ở sông Cái, sông Thao, sông Đà thuộc sông Hồng.
Các tướng khuyên can rằng nên dùng cọc gỗ đầu bịt sắt cũng đủ hiệu nghiệm, dùng cọc kim loại khuân vác nặng nhọc khó khăn, làm khổ sức quân dân, mà không có thêm tác dụng gì cả. Nhưng cha con Hồ Quý Ly không nghe, quyết tâm muốn "chơi sang", còn đòi cọc sắt phải thật bén nhọn. Lòng người càng ly tán, vua không biết nghe lời phải, dân không theo, không hợp tác với triều đình để tính toán thủy triều nên nhiều nơi quân Hồ chỉ đóng cọc ở đó rồi bỏ mặc hên xui, không nắm vững được giờ giấc lên xuống của thủy triều.
Không hiểu do quân Minh may mắn hay dân oán ghét nhà Hồ không báo cáo chính xác chu kỳ thủy triều ở nhiều nơi, mà quân Minh tiến quân trên sông bình an vô sự, vượt qua các cửa sông then chốt, các khúc sông quan trọng, đánh bại thủy quân triều Hồ trong trận thủy chiến dữ dội trên sông Mộc Phàm (bãi Mộc Hoàn), rồi tiến thẳng đến phòng tuyến Đa Bang, vốn là một phòng tuyến hết sức kiên cố do hoàng thân Hồ Nguyên Trừng thiết kế và chỉ đạo xây dựng, ông cho xây thành Đa Bang để án ngữ vị trí chiến lược trọng yếu này và thiết lập đồn lũy và các hệ thống phòng ngự chung quanh, tạo thành thế ỷ giốc liên hoàn, hình thành phòng tuyến Đa Bang.
Phòng tuyến Đa Bang về mặt quân sự có lẽ cũng ngang ngửa với phòng tuyến Như Nguyệt mà quân dân Đại Việt thời Lý đã cầm chân thành công quân xâm lược Tống, không cho địch tiến sâu vào để tiến về kinh đô. Nhưng khác với triều Lý, triều Hồ không có lòng quân, lòng dân, nên phòng tuyến Đa Bang tuy vô cùng kiên cố chắc chắn về quân sự, xây dựng, kỹ thuật, nhưng vẫn bị vỡ. Quân Minh đã thành công chọc thủng phòng tuyến Đa Bang, chiếm thành Đa Bang. Sau đó tiến về kinh đô Đại Ngu truy bắt Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương. Nhà Hồ cuối cùng đã thất bại hoàn toàn. Nước ta bị giặc Minh thôn tính.
Bài học thời nhà Hồ càng minh định một nguyên tắc, một chân lý bất di bất dịch: Tất cả đều ở con người, mọi vũ khí là phụ thuộc vào con người. Con người không biết dùng thì dù là vũ khí lợi hại ra sao cũng đều vô dụng, vô ích. Tự thân cọc ngầm trên sông không có tác dụng gì cả nếu không có con người, không có sự liên hệ, quan hệ, hợp tác chặt chẽ giữa người và người, không có lòng dân vững chắc.
Trong cuộc chiến Minh - Việt lần thứ nhất, có thể thấy rõ là dân không ủng hộ triều Hồ nên đã thờ ơ không chỉ dẫn, hợp tác. Ngư dân địa phương không cộng tác với quân triều để tính ra được thủy triều, hoặc khi bị bắt ép thì chỉ bậy, chỉ qua loa. Và một vũ khí thần diệu đến tay nhà Hồ sử dụng đã không còn tác dụng.
Trong chiến tranh du kích, điều kiện tiên quyết là phải có được lòng dân, để dân kiên quyết giữ bí mật và không tiết lộ với giặc. Trong chiến tranh Minh - Việt lần thứ nhất, một số kẻ đi báo với giặc, hoặc khi bị giặc thúc ép thì khó giữ nổi khí tiết (vì bản thân cũng đã không ưa nhà Hồ) nên dễ cung khai, cả quân và dân đều không cố gắng giữ bí mật. Cho nên trong cuộc chiến đó quân Việt ẩn thân mai phục ở đâu thì quân Minh đều biết, lường trước và đề phòng cảnh giác. Đường đi nước bước, nơi nào hiểm yếu dễ ẩn náu, nơi nào dễ gặp mai phục, địch đều moi tin ra được từ cư dân tại đó, nên không hề bị trúng kế, không sa vào các vị trí có phục binh. Đất Việt có lợi thế địa lợi vốn dĩ rất thuận lợi cho du kích chiến, nhưng yếu tố địa lợi mà không gắn liền với yếu tố nhân hòa thì cũng vô dụng.
Có lẽ vì vậy mà thiên tài quân sự Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nói đại ý: Chiến thuật chiến tranh du kích là một phần của chiến lược chiến tranh nhân dân. Như vậy, nếu không có dân, nếu cuộc chiến đó vốn đã không phải là một cuộc chiến tranh nhân dân, thì làm sao phát huy được chiến tranh du kích. Đó chính là lời giải cho câu hỏi vì sao nhà Hồ cũng khai thác tận dụng yếu tố địa lợi nhưng bất thành, tại sao cùng một lợi thế địa lợi đó, mà phe dùng được phe thì không.
Cọc tre thời đánh Mỹ
Năm 1968, quân Giải phóng ở Quảng Trị đã tạo nên một "thế trận Bạch Đằng trên sông Hiếu", áp dụng lại trận địa cọc ngầm của người xưa. Lần này những kẻ bị đánh tan là quân đội Hoa Kỳ trăm trận trăm thắng. Nhân lúc thủy triều xuống thấp, quân ta cắm cọc tre xuống sông kết hợp với thả bè tre lơ lửng trong nước theo hình dích dắc để co cụm tàu giặc lại, phục kích quanh bờ, rồi "nhắm thẳng quân thù mà bắn".
Thời điểm đó, con đường vận chuyển lương thực, hàng hóa, nhiên liệu, thiết bị quân sự từ cảng Cửa Việt lên thị trấn Đông Hà để nuôi cả phòng tuyến Quảng Trị - Khe Sanh là hết sức quan trọng đối với Mỹ-ngụy. Con sông Hiếu ở Quảng Trị (còn gọi là sông Cam Lộ) là một phụ lưu của sông Thạch Hãn. Hằng ngày trên sông Hiếu có từ 15 đến 20 tàu chiến của thủy quân lục chiến Mỹ làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa, nhiên liệu, thiết bị, lương thực và vũ khí từ cảng Cửa Việt lên Đông Hà.
Để "chia lửa" với mặt trận Khe Sanh cũng như để cắt con đường vận chuyển tiếp tế hậu cần và phá hủy các thuyền chở lương thực, súng đạn của giặc, Bộ Chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã chỉ đạo các lực lượng hướng đông phải kiên quyết phong tỏa cảng Cửa Việt, chẹn "cuống họng" của địch, đồng thời cắt "thực quản" của chúng, phong tỏa đoạn sông từ Cửa Việt lên Đông Hà, bằng các cách đánh đặc công phối hợp với pháo binh, bố trí vật cản, phối hợp trận địa dưới sông, trên bờ, nhằm tiêu diệt tàu giặc, làm tê liệt tuyến cảng sông của chúng.
Từ nhiều diễn biến tiêu cực của Mỹ trước đó, cộng với các tin tức tình báo, ta dự đoán ý đồ của họ là muốn khai thông tuyến vận tải sống còn Cửa Việt - Đông Hà. Từ thực tiễn đó, Thường vụ liên huyện Gio – Cam quyết tâm tổ chức một đợt chiến đấu mới phong tỏa dài ngày trên sông Hiếu, ngăn chặn và tiêu diệt tàu địch, làm tắc nghẽn giao thông, đẩy địch vào tình trạng thiếu lương thực, đạn dược quân nhu.
Để tìm ra phương án đánh giặc hiệu quả nhất, một cuộc họp bàn đã được tổ chức. Cuộc họp đã nhất trí một quyết định táo bạo: Để ngăn tàu giặc, ta cần học theo cách đánh trên sông Bạch Đằng của tổ tiên, cụ thể là nơi nào nước cạn thì dùng các cọc tre cắm ngập chìm trong nước, nơi nào nước sâu thì kết tre thành chùm, một đầu buộc vật nặng thả xuống sông. Các chùm tre lại được kết với nhau thành bè nửa chìm nửa nổi tạo thành thế dích dắc và được neo giữ không để trôi tự do. Các cọc tre và bè tre kết hợp với bùng nhùng tự tạo, dây thép gai, mìn và ngư lôi khiến tàu địch muốn lách để tiến cũng không được. Hai bên bờ sông bố trí các loại hỏa lực để tiêu diệt tàu Mỹ.
Đây là một kế hoạch tối ưu nhưng rất phức tạp, nói dễ hơn làm. Cần những biện pháp thích hợp để huy động, thu gom, vận chuyển, tập kết vật liệu và cách thức xây dựng "thế trận Bạch Đằng" sao cho bí mật. Vừa phải vận động người dân giúp xây thế trận, vừa phải làm cho dân hiểu tầm quan trọng của trận này và không tiết lộ nửa câu ra ngoài cho bọn Việt gian chỉ điểm, đặc biệt là các cháu nhỏ.
Sau cuộc họp, bộ đội và du kích Gio Linh liền đi phổ biến chủ trương và phương thức đánh giặc độc đáo đó cho dân chúng quanh vùng và được bà con tán thưởng khen hay và nhiệt tình ủng hộ. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân địa phương đã lao động cật lực và đóng góp hàng ngàn cây tre, hóp, phi lao, dương và hàng trăm cuộn dây thép gai.
Ảnh minh họa
Các du kích xã, du kích địa phương và các thanh niên trai tráng khỏe mạnh làm nghề sông nước được huy động cho việc cắm cọc, kết bè. Hàng chục chiếc đò của dân cũng được huy động để chở các chướng ngại vật, bộ đội, du kích sang sông. Trong những ngày đó, mỗi khi màn đêm buông xuống là bà con hai bên bờ sông Hiếu lại đào hầm, giao thông hào làm trận địa cho bộ đội, du kích. Hàng chục dân công cũng được huy động để phục vụ hậu cần, cứu thương, y tế. Riêng làng Thượng Nghĩa, chỉ trong một đêm dân làng đã hạ hơn 4000 cây tre để đóng góp cho việc chung.
Như vậy, vận dụng cách đánh truyền thống của cổ nhân, quân dân hai bên bờ sông Hiếu đã xây dựng nên một thế trận rất hiểm mà nhiều người gọi là "trận Bạch Đằng thời đánh Mỹ", hay còn gọi là "trận Bạch Đằng trên sông Hiếu", "thế trận Bạch Đằng trên sông Thạch Hãn" (sông Hiếu là phụ lưu của sông Thạch Hãn) bằng các cọc tre, bè tre kết hợp với bùng nhùng, dây thép gai, mìn và ngư lôi.
Một lần nữa, quân Mỹ lại bị động, quân Việt là phía chủ động quyết định đánh ở đâu. Vị trí được quân đội Việt Nam chọn làm trận địa là khu vực Đại Độ, đoạn từ ngã ba sông Gia Độ đến Hói Sòng, một đoạn của con sông Hiếu, nằm về phía nam làng Vinh Quang hạ (xã Gio Quang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), cách Tam giang khẩu (ngã ba Gia Độ) 300m về phía tây, cách thị xã Đông Hà gần 2km về phía đông. Khu vực này sông khá hẹp, hai bên bờ địa hình rất thuận lợi cho việc cất giấu, bố trí lực lượng và hỏa lực.
Có được sự ủng hộ hoàn toàn của người dân địa phương, quân Giải phóng và quân dân địa phương đã đồng tâm hiệp lực, cộng tác chặt chẽ tính nhẩm, ghi nhớ, ghi chép và nắm bắt được quy luật thủy triều ở sông Hiếu.
Đêm 28-2-1968, khi nước sông Hiếu cạn dần, lực lượng biệt động thị xã Đông Hà, du kích một số xã Gio Hà (nay là Gio Mai, Gio Quang), Gio Cam, bộ đội địa phương Cam Lộ, dân chúng thuộc các xã Cam Giang, Gio Mai, Gio Quang, Trung đoàn 270 (Đoàn 31), bộ đội đặc công Đoàn 126; du kích một số xã và một số quần chúng Ngã Ba cùng 20 chiếc thuyền chở tre, hóp, dây thép gai.... bí mật tiếp cận khu vực Đại Độ. Công việc cắm cọc bắt đầu được tiến hành dưới cơn mưa lạnh.
Mưa mỗi lúc một nặng hạt, gió đông bắc từ biển thổi vào như cắt vào da thịt, thỉnh thoảng pháo sáng giặc Mỹ lại bắn lên không trung chiếu sáng cả một vùng rộng lớn. Vậy mà lực lượng du kích và người dân vẫn lặng lẽ, bí mật bố trí, liên kết bãi cọc. Sau hơn một giờ ngâm mình trong dòng nước lạnh buốt, "bãi cọc Bạch Đằng" được bố trí xong với gần 2000 cọc tre, 60 cọc phi lao, 200 cuộn dây thép gai được cắm xuống dòng sông Hiếu. Xen giữa các bãi cọc là các bãi mìn, những quả thủy lôi.
Trận địa được bố trí thành hai bãi cọc dài, lặng lẽ rình chờ con mồi đi vào tử địa. Trên bờ, trận địa hỏa lực bắn tàu, bắn máy bay (vì Mỹ chu đáo, mỗi chuyến tàu trên sông đều có trực thăng bay theo hộ tống) của bộ đội, du kích được bố trí chu đáo sẵn sàng cho giờ khai hỏa.
Đêm 1-3-1968, các lực lượng vũ trang và bán vũ trang địa phương, thanh niên xung phong, dân công, quần chúng rút lui hết, chỉ để hai tổ ở lại phối hợp với bộ đội chủ lực. Các đơn vị hỏa lực thuộc trung đoàn 270 cùng bộ binh và du kích bí mật áp sát bên bờ sông từ Mai Xá, Vinh Quang hạ, Đại Độ sẵn sàng đánh giặc. Trời vừa sáng thì cạm bẫy "thế trận Bạch Đằng" đã được hoàn thành và giăng ra. Khi triều cường, nước sông đã che kín bãi cọc, lính Mỹ dùng ống dòm quan sát từ xa cũng không thấy gì khác lạ.
Quân Giải phóng ở Cửa Việt
Rạng sáng ngày 4-3, một đoàn tàu giặc gồm 12 chiếc được máy bay trinh sát, trực thăng vũ trang và xe lội nước hộ tống từ Cửa Việt tiến về Đông Hà, chiếc nọ cách chiếc kia 15 - 20m. Do trước đó quan sát bằng ống dòm từ xa thấy không có dấu hiệu nguy hiểm nên giặc vô tư đi tới, không hề biết đến cạm bẫy nguy hiểm đang được giăng ra chờ họ. Đến khi triều xuống thấp, chiếc tàu đi đầu vấp phải bãi cọc và chướng ngại vật, làm chúng bị kẹt và tắt nghẽn.
Đây là những tàu chiến hiện đại của Mỹ nên chúng cũng chưa bị hư hại gì, nhưng chúng bị vây kẹt cứng trong bãi cọc, không biết đi đâu, xoay trở ra sao, bị dính chặt dậm chân tại một chỗ, như bị "điểm huyệt" cứng đơ vậy. Những chiếc phía sau không bị lọt vào trong bãi cọc thì cũng bị kẹt đường tắt nghẽn, di chuyển chậm chạp ì ạch và muốn quay đầu lại cũng rất khó vì sông hẹp. Hoàn toàn bị "đóng băng" ở đó, trở thành mục tiêu lý tưởng và làm mồi cho hỏa lực của quân dân Quảng Trị.
Trong lúc giặc đang loay hoay tìm cách thoát ra thì ngay lập tức một tàu chiến của địch đã đụng vào thủy lôi và phát nổ. Thủy quân lục chiến Mỹ vốn là những chiến binh chuyên nghiệp chứ không dễ hoảng loạn như quân ngụy, nên thay vì vỡ trận tranh nhau tháo chạy hay nhảy xuống sông bơi lên bờ tìm cách chạy thì họ bình tĩnh định tìm cách gỡ ra và thoát thân trong trật tự. Như họ đã từng được huấn luyện, chuẩn bị chu đáo trong các quân trường, chiến trường giả bên Mỹ.
Ngay lập tức đạn pháo của quân Việt Nam từ trận địa trên bờ thi nhau bắn chặn, "nhắm thẳng quân thù mà bắn". Trong đoàn tàu Mỹ có một số chiếc chở nhiên liệu, xăng dầu bị trúng đạn khiến xăng, dầu chảy tràn lan bốc cháy dữ dội, chẳng mấy chốc sông Hiếu trở thành một dòng sông lửa. Đã bị vấp phải "bãi cọc Bạch Đằng" làm cho đoàn tàu bị dồn cứng ngắt chẳng biết xoay trở đường nào, lại còn bị bồi thêm bởi các loại súng ĐKZ, B41, 12,7mm, súng cối, súng bộ binh, đoàn tàu thủy quân lục chiến Mỹ bị dìm trong biển lửa, bốc cháy dữ dội rồi chìm xuống sông, có vài chiếc tàu bị chính đạn trên tàu nổ xé tan làm nhiều mảnh.
Sau hơn một tiếng đồng hồ chiến đấu, trong trận này, quân dân địa phương Cam Giang, Gio Hà và bộ đội Quảng Trị đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với sự yểm trợ của bộ đội chủ lực đã bắn cháy, đánh chìm 7 tàu Mỹ, gây tắt nghẽn cho tuyến đường tiếp viện Cửa Việt - Đông Hà của giặc.
Một số chiếc đi sau quay mũi định tháo chạy về Cửa Việt, nhưng bị hỏa lực quân ta từ bờ Bắc sông Bến Hải được các đài trinh sát tiền tiêu hướng dẫn nhả đạn chính xác, nên quân giặc cũng không thoát khỏi án tử hình. Xác tàu chiến, xác lính giặc trôi bập bềnh trên sông nước suốt mấy ngày mới thoát ra Biển Đông. Máu nhuộm đỏ cả một khúc sông. Mùi khói lửa khét nghẹt và máu tanh nồng nặc. Từ đó bọn giặc coi Cửa Việt - Đông Hà là nỗi kinh hoàng và sợ quân Giải phóng ở đây như sợ cọp.
Các chiến thắng lẫy lừng kể trên đã biến những chiếc cọc gỗ mộc mạc trở thành thứ vũ khí kinh điển, vũ khí huyền thoại trong lịch sử quân sự Việt Nam và thế giới.
Ảnh biếm họa với thông điệp rằng truyền thống Bạch Đằng sẽ chặn đứng cuồng vọng "đường lưỡi bò" của Trung Hoa
Số phận của loại vũ khí này:
Nhìn theo góc độ vật lý, thì loại vũ khí này cũng như nỏ liên châu, không còn hợp thời nữa, không còn chỗ dùng nữa, vì không còn phù hợp với chiến tranh hiện đại. Chiến tranh ngày nay chủ yếu diễn ra trên đất, trời và biển, ít còn diễn ra trên sông nước.
Nhưng xét theo góc độ tinh thần, thì đây còn là vũ khí lòng dân, nó là biểu tượng của chí khí chống ngoại xâm, sự khéo léo của dân tộc trong chiến tranh vệ quốc và lòng dân. Bản thân món vũ khí này không làm được gì cả nếu không có sức người, lòng người, bàn tay khéo léo của con người, của quân dân. Nếu nhìn theo góc độ này thì đây là vũ khí của lòng dân và nó trường tồn cùng dân tộc chứ không đi đâu hết.
Nó là bài thuốc để các nhà lãnh đạo nào đã quên bài học lòng dân nhìn vào mà sực nhớ lại. 2 bài học Bạch Đằng và 5 bài học cọc ngầm kể trên chính là minh chứng để chúng ta thấy rõ nguyên tắc, chân lý có dân là có tất cả. Như Bác Hồ đã từng nói: "Dễ vạn lần, không dân cũng chịu. Khó vạn lần, dân liệu cũng xong."
Quân đội Ngô Quyền, quân nhà Trần, và quân dân Quảng Trị có được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân địa phương nên đã nắm được quy luật thủy triều, và vận dụng kiến thức đó chung với với việc đóng cọc, phục kích địch thì mới chiến thắng được. Đây là điều kiện quyết định, bởi vì cách tính chu kỳ thủy triều ở các địa phương đều không giống nhau, và chỉ có dân địa phương đó, nhất là những người làm nghề sông nước ở ngay tại đó, thì mới quen thuộc (họ đã sống ở đó từ nhỏ tới lớn, gia đình họ ở đó nhiều đời) và nắm được phần lớn quy luật sông nước ở đó. Họ sống bao đời gần sông nước và họ được bố mẹ, người lớn truyền dạy cho cách tính theo con nước, theo chu kỳ lên xuống của nó. Chính là nhờ vào hiện tượng thủy triều, nên con người sống ở đó mới biết cách canh để mà đánh bắt tốt hơn thủy sản. Do đó nếu ở xa thì không tài nào nắm được.
Nhà Hồ đã học bài học đau đớn đó và hối thì đã muộn. Với khoa học phát triển tiên tiến ngày nay các nhà khoa học tự nhiên, toán học vẫn không ai đưa ra được một công thức, phép tính chung nào để tính ra được thời điểm thấp cao của thủy triều (tide).
Nhà Hồ có quân số rất đông (phần nhiều bắt lính), huấn luyện rất kỹ, xây đắp thành cao hào sâu, và vũ khí rất tốt. Hồ Nguyên Trừng là nhà phát minh lớn trong thời đó, sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Hồ Nguyên Trừng sau đó không lâu đã sáng chế thành công Thần cơ sang pháo (súng thần cơ) và trước hiểm họa Bắc xâm từ nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng cũng chế tạo ra Cổ lâu thuyền, một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai tầng boong với hàng chục tay chéo và hai người điều khiển một mái chèo. Cổ lâu thuyền vừa được dùng để tải lương, vừa sẵn sàng chiến đấu khi được trang bị súng thần cơ đầy uy lực. Cổ lâu thuyền còn được giới bình dân bá tánh gọi là thuyền hai đáy, bụng thuyền được chia ra làm hai phần: Phần dưới để lính chèo thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu.
Hồ Nguyên Trừng đã kế thừa kỹ thuật sản xuất thuốc súng, hỏa khí và cải tiến kỹ thuật đúc súng từ các triều đại trước và chế tạo ra súng Thần cơ sang pháo, kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao.
Súng thần cơ là phát minh lỗi lạc của hoàng thân Hồ Nguyên Trừng trong thời Hồ. Đây là kiểu đại bác đầu tiên ở VN, sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức công phá cao.
Sau thời nhà Hồ, súng thần công (các phiên bản cải tiến của súng thần cơ) tiếp tục được người Việt phát triển và có sự học hỏi nước ngoài để cải tiến kỹ thuật. Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, rất nhiều cỡ súng thần công từ loại nhỏ đến khổng lồ đã được đúc và đưa vào sử dụng.
Trong cuộc xâm lược Đại Việt, dù quân Minh chiến thắng chúng vẫn không tránh khỏi nỗi kinh sợ trước hỏa lực của Thần cơ sang pháo. Khi chiếm được những khẩu pháo này, chúng rất đỗi ngạc nhiên vì Thần cơ sang pháo có nhiều ưu thế hơn hẳn các loại hỏa pháo của quân Minh. Những cỗ Thần cơ sang pháo nhanh chóng được chở về Trung Quốc nghiên cứu. Đây có lẽ là một trong những biểu hiện xưa nhất của "truyền thống đánh cắp công nghệ quốc phòng" của người Trung Quốc.
Vũ khí của nhà Hồ lợi hại, hoành tráng, tốn kém và hiện đại tối tân (theo tiêu chuẩn thời đó) đến như vậy, nhưng không phát huy được sức mạnh của cọc ngầm, hay nói đúng hơn là không phát huy được sức mạnh của nhân dân, thì vẫn phải thua đau. Vũ khí lòng dân mới là vũ khí vô địch vậy. Vũ khí làm cho địch thua từ xưa đến nay luôn là những vũ khí mà địch không sợ, không ngờ, và vì không sợ, không ngờ nên chúng mới không đề phòng và chuốc lấy bại vong. Những vũ khí hiện đại tối tân của nhà Hồ làm cho địch gờm, chú ý và đề phòng cảnh giác nên trở thành không còn bao nhiêu tác dụng.
Tóm lại, quân Ngô Quyền, nhà Trần, quân Giải phóng có được dân chúng địa phương ủng hộ, đã có sự liên kết thống nhất chặt chẽ giữa trung ương và địa phương nên đã thắng lợi trong các trận đánh quyết định. Nhà Hồ không được như vậy nên đã thất bại và mất nước. Vũ khí cọc ngầm này là một biểu tượng và bài học lớn đó.
3. Voi lửa
Đất Việt là nơi có nhiều voi sinh sống, và người Việt đã sớm sử dụng loài voi như một loại vũ khí, một loại "binh chủng" đặc biệt trong các cuộc chiến. Khi hành quân, voi là phương tiện vận chuyển, chuyên chở quân nhu, vũ khí, lương thảo. Trong chiến đấu, voi trở thành chiến cụ đầy uy lực, có thể dùng vòi, ngà và chân tiêu diệt địch, húc vào các nhóm lính địch, húc đổ cổng thành, tả xung hữu đột, dày xéo, dẫm nát quân địch, phá rào lũy mở đường tiến cho bộ binh. Với ưu thế của mình, các đội quân voi chiến tiên phong đi đầu luôn trở thành nỗi kinh hoàng của quân xâm lược ngoại bang.
Những người lính trên mình voi có lợi thế về độ cao, tầm quan sát tốt, tác chiến thuận lợi với các mũi giáo dài và các loại vũ khí tầm xa như cung, nỏ, súng. Đặc biệt, voi còn là khắc tinh của kỵ binh bởi loài ngựa có nỗi sợ bản năng với loài voi.
Tài sử dụng voi trận của người Việt đã gắn liền với hình ảnh "cưỡi voi đánh giặc" của Bà Trưng, Bà Triệu. Từ thời Hai Bà Trưng cho đến thời Quang Trung, một cuộc cách mạng đã diễn ra trong nghệ thuật sử dụng voi trận của người Việt. Với thiên tài quân sự của mình, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã biến những chú voi trở thành một lực lượng hỏa lực cơ động, mang theo đại bác và hỏa pháo trên lưng, thực hiện nhiệm vụ đột kích với sức công phá đáng sợ. Đó là những thay đổi vượt bậc so với các đội tượng binh thời trước. Voi trận còn được sử dụng trong một số quân đội quốc gia khác, nhưng "voi lửa" thời Tây Sơn có thể nói là một loại vũ khí "không giống ai".
Trận đánh điển hình cho tài dùng voi của Nguyễn Huệ là trận Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789, khi 100 voi lửa của quân Tây Sơn đã làm những chú ngựa trong đội kỵ binh của quân Thanh khiếp đảm, dẫm đạp lên nhau chạy loạn, ngựa đạp chết lính, tháo chạy tán loạn. Kết quả là quân Thanh thua to, bao nhiêu tên xâm lược đã bị voi Việt và cả ngựa Tàu đạp tan thây.
Trong các thời kỳ trước, voi trận thường được sử dụng làm lực lượng đột kích mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc trong mỗi mũi tiến công, mang bản chất một lực lượng phụ trợ chiến thuật. Phải đến thời Tây Sơn, thiên tài quân sự Quang Trung - Nguyễn Huệ đã khai thác, tận dụng ưu điểm của loài voi, rồi voi chiến mới được sử dụng tập trung số lượng lớn có trọng tâm trọng điểm cụ thể, biến voi chiến trở thành một lực lượng tấn công chiến lược.
Đặc biệt, Nguyễn Huệ đã biến voi thành những "cỗ xe tăng" có sức mạnh áp đảo, trang bị đại bác và hỏa pháo trên lưng. Trên lưng mỗi quân voi có ba, bốn người lính chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy quân địch.
Voi chiến không phải là một vũ khí hoàn hảo. Nó có khuyết điểm là sợ lửa và tiếng nổ lớn. Trong chiến tranh Minh - Việt lần thứ nhất, quân Minh đã khôn khéo lợi dụng pháo, lửa rồi đeo mặt nạ sư tử vào cho các ngựa chiến để hù dọa voi trận nhà Hồ, làm cho voi quân Hồ chạy ngược vào trong trận làm vỡ trận quân Hồ.
Cho thấy việc nghĩa quân Tây Sơn huấn luyện được những con voi chịu đựng được môi trường chiến đấu chung quanh đầy tiếng nổ và khói lửa như vậy càng thể hiện trình độ quân sự rất đáng nể của các quản tượng, các chuyên viên huấn luyện voi, và các tướng lĩnh Tây Sơn.
Với những trang bị như vậy, voi chiến của đội quân áo vải cờ đào Tây Sơn đã biến thành một lực lượng hỏa lực cơ động có sức mạnh đột kích kinh khiếp. Đội quân "voi lửa" của vua Quang Trung, người thiên tài quân sự cả đời cầm quân không hề biết thua trận là gì, đã hội đủ cả 3 yếu tố chiến thuật: Cơ động, đột kích và hỏa lực. Đây thật sự là một cuộc cách mạng voi chiến so với các thời kỳ trước đó.
Năm 1789, trong chiến dịch giải phóng Thăng Long, 100 voi trận Tây Sơn do nữ đô đốc Bùi Thị Xuân chỉ huy đã đánh tan đội kỵ binh đông đảo của Tôn Sĩ Nghị, góp phần làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của quân đội Tây Sơn và dân tộc Việt Nam, giải phóng Bắc Hà, xóa bỏ ranh giới ở sông Gianh chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài, Bắc Hà - Nam Hà, thống nhất hai Đàng.
Bên cạnh việc trang bị hỏa lực cho voi, một yếu tố khác cũng làm tăng cường đáng kể sức mạnh và tốc độ hành quân của đội voi chiến Tây Sơn là sự ra đời của những chiến hạm khổng lồ Định Quốc được chế tạo theo mô hình phương Tây thời bấy giờ. Với khả năng chở được voi, những chiến hạm khổng lồ này khiến cuộc hành quân xuyên Việt của đội voi diễn ra thần tốc và dễ dàng hơn rất nhiều bằng đường biển. Góp phần thêu dệt thêm những huyền thoại vào các chiến dịch hành quân siêu tốc của quân Tây Sơn.
Số phận của loại vũ khí này:
Bước vào thời cận đại, với cuộc cách mạng hỏa khí từ phương Tây và sự phát triển vượt bậc về công nghệ quốc phòng, lực lượng voi chiến dần trở nên lạc hậu, lỗi thời trước sức mạnh vượt trội của hỏa lực châu Âu.
Mất tác dụng trên sa trường, chúng chỉ còn là những con vật mang tính biểu tượng, được sử dụng trong các nghi lễ hay mua vui cho vua chúa, quan lại phong kiến trong những cuộc chiến với hổ, báo, heo rừng và cả với nhau, tại các sân đấu. Binh chủng kỵ binh cũng chịu chung số phận.
Sau này trong hai cuộc kháng chiến, nhân dân các dân tộc thiểu số có dùng voi để tải súng đạn, lương thực, đồ dùng lên chiến trường cho bộ đội. Tuy nhiên vai trò thực chiến của các đơn vị tượng binh, kỵ binh, và vũ khí "voi lửa" đến đây kết thúc.
4. Súng hỏa hổ
Ảnh minh họa
Ngoài "xe tăng voi lửa" kể trên, binh lính Tây Sơn còn được trang bị một loại vũ khí cá nhân là Hỏa hổ. Hỏa hổ là một loại vũ khí hình ống, một loại súng phun lửa có thể biến địch thành "cây đuốc sống". Khi lâm trận, trong ống Hỏa hổ bắn nhựa thông ra, trúng phải đâu là lập tức bốc cháy. Loại vũ khí đặc biệt này được trang bị cho cả quân chủng lục quân và thủy quân của nhà Tây Sơn.
Theo sách binh pháp "Binh thư yếu lược" tương truyền của Trần Hưng Đạo, cách chế là như sau: Dùng một chiếc ống (bằng sắt hoặc bằng tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp thuốc thành nhiều nấc. Nấc đầu tiên là liều thuốc bắn, giã nén chặt dày khoảng 4cm, sau đó tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giã nén chặt, dày khoảng 12cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm các vật liệu sát thương, dày khoảng 4cm. Phần ống còn lại nạp dầy thuốc phun. Gặp địch, người dùng Hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chỉa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác.
Sách binh pháp "Hổ trướng khu cơ" của quân sư Đào Duy Từ (mưu sĩ hàng đầu được các chúa Nguyễn trọng dụng nhất trong cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh) ghi: Hỏa hổ chính là hỏa tiễn, vì lửa cháy dữ dội, nên gọi là hỏa hổ. Sử sách trong Quốc sử quán nhà Nguyễn đời Minh Mạng còn gọi Hỏa hổ là hỏa phún đồng.
Sau khi quan sát, suy luận, phân tích, các nhà nghiên cứu cho rằng loại vũ khí này được cải tiến từ các hỏa thương và hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại, một loại vũ khí chiến lược.
Điều ấn tượng là vua Quang Trung đã chế tạo ra súng Hỏa hổ bằng những ống tre, trở thành một vũ khí cá nhân có tính sát thương cao. Nếu đem so với những khẩu súng hỏa đồng của quân chúa Trịnh hay súng pháo lớn cần hàng chục người khiêng của nhà Minh, nhà Thanh thì sáng tạo này của Quang Trung đã bỏ xa những phe kia cả về trình độ công nghệ lẫn tác dụng thực chiến.
Hỏa thương là một loại súng cầm tay sơ khai của bộ binh. Đó là một ống nhỏ có bầu đựng thuốc súng và nòng súng, khai hỏa bằng cách châm ngòi dẫn.
Hỏa đồng có cách hoạt động giống hỏa thương, nhưng có kích thước lớn hơn và được đặt trên bệ cố định. Nó sát thương bằng cách phun lửa chứ không dùng đạn.
Quân Thanh khi chuẩn bị kéo sang xâm lăng nước ta, trong 8 điều quân luật do Tôn Sĩ Nghị và các tướng biên soạn, có điều thứ 5 để chống lại súng Hỏa hổ như sau: "Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng ống phun lửa làm lợi khí, gọi là hỏa hổ. Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó để đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải rút lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi, so với súng ống của ta thì họ kém rất ra. Hiện nay, ta chế sẵn vài trăm lá chắn da trâu sống. Nếu gặp Hỏa hổ của người Nam phun lửa, thì quân tay cầm lá chắn ấy đỡ lửa một tay cầm dao chém bừa chắc rằng chúng bỏ chạy tan tác".
Một số tài liệu cũng cho biết, trong bộ chiến, vua Quang Trung thường dùng voi lửa phá tan kỵ binh địch không còn manh giáp, và dùng súng Hỏa hổ gây rối loạn bộ binh địch, rồi xông lên giáp chiến xáp lá cà.
Còn trong thủy chiến, ngài rất hay dùng lối đánh giáp công áp sát để hạn chế sức sát thương của đại bác địch, rồi triển khai hỏa công để đốt tàu địch, dùng một biến thể của Hỏa hổ có tên là "Rồng cỏ", vốn là một loại bãi cháy dùng đánh hỏa công để vây đốt binh thuyền của địch, mà điển hình và ngoạn mục nhất là trận đánh hỏa công do Nguyễn Huệ chỉ huy, đã đốt cháy tàu chiến của Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc ở chiến trường Gia Định năm 1782.
Hỏa cầu được nhà quân sự Đào Duy Từ sáng chế dựa trên kỹ thuật hỏa khí phương Tây.
Ngoài súng Hỏa hổ, quân Tây Sơn còn dùng Hỏa cầu (Lưu hoàng) để phụ trợ cho Hỏa hổ. Hỏa cầu là loại trái nổ dùng để ném, có tác dụng và hiệu quả gần như lựu đạn. Tùy vào chất nạp mà trái nổ có thể tạo ra khói độc, nhựa cháy, hoặc mảnh vụn sát thương.
Hỏa hổ và hỏa cầu, hai loại vũ khí cá nhân rất "bá đạo" của quân Tây Sơn làm khiếp đảm các thế lực thù trong giặc ngoài, góp phần vào trận đại thắng quân Thanh xuân Kỷ Dậu 1789, giải phóng Bắc Hà, tạm thống nhất đất nước.
Số phận của loại vũ khí này:
Dưới thời vua Quang Trung, nhà Tây Sơn có được lòng dân, cộng với thiên tài quân sự của nhà vua nên các công dụng lợi hại của súng Hỏa hổ được phát huy lên cao nhất. Sau khi vua băng hà, các tướng lĩnh Tây Sơn bị sốc nặng, không ai phục ai, đấu đá nhau tranh giành quyền lực và quyền vị. Vua mới còn nhỏ không đủ sức trị vì. Bên trong quyền thần Bùi Đắc Tuyên độc đoán, chuyên quyền, khiến cho quần thần nhiều người bất phục, dị nghị. Nhà Tây Sơn mất dần lòng dân.
Không còn dân, không còn thiên tài quân sự Quang Trung - Nguyễn Huệ, súng Hỏa hổ cũng không còn phát huy tác dụng thích hợp. Hơn nữa người Pháp và Bá Đa Lộc không ngừng viện trợ các loại vũ khí hiện đại tối tân của Pháp cho quân Nguyễn. Súng Hỏa hổ dần trở nên lạc hậu, lỗi thời, thất thế trước các súng trường và đại bác phương Tây.
Hỏa hổ (giữa ảnh)
Sau khi chiến thắng, chiếm được ngai vàng và lên ngôi, vua Gia Long cho dẹp hết các loại vũ khí có thể gợi nhớ đến biểu tượng Tây Sơn, phổ biến và sử dụng các trang bị, vũ khí của châu Âu. Cuộc cách mạng về công nghệ, công nghiệp, hỏa khí ở châu Âu càng làm cho súng Hỏa hổ, Hỏa cầu, và cả mẫu súng thần công của Hồ Nguyên Trừng mà quân chúa Trịnh hay dùng đều trở thành "đồ cổ".
Tuy nhiên, súng Hỏa hổ vẫn còn ý nghĩa lịch sử, mỗi khi nghe tới nó khiến người ta không khỏi bồi hồi nhớ tới những chiến công xưa vô cùng hiển hách của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đội quân áo vải cờ đào Tây Sơn, và các tướng lĩnh Tây Sơn lừng danh một thuở.
5. Súng ngựa trời
Đây là loại vũ khí tự chế, thô sơ có hình con bọ ngựa, bắn các mảnh kim loại, đinh, miểng chai, đá vụn để sát thương địch. Cấu tạo gồm: Nòng súng bằng kim loại (ống nước, ống tôn), đáy nòng bịt kín (hàn hay đập dẹt) đặt trên hai chân chống, gần đáy nòng khoan một lỗ để lắp cơ cấu cò hay bộ phận phát hỏa đơn giản. Cơ cấu cò đơn giản kiểu bẫy chuột.
Trong nòng nhồi thuốc phóng (thường dùng thuốc đen), tấm đệm bằng gỗ và các mảnh gang, sắt, mảnh sành, miểng chai, đinh, đá, bi xe đạp.... (ngâm nọc rắn, nước tiểu). Cự ly phóng mảnh tới 150 mét, sát thương địch khoảng cách tới 100 mét. Súng ngựa trời xuất hiện lần đầu ở Bến Tre trong cao trào Đồng khởi năm 1960.
Dụng cụ chế tạo vũ khí của quân giới miền Tây Nam Bộ trong thời gian đầu chống Mỹ
Năm 1960, trước bối cảnh miền Bắc chưa có điều kiện và khả năng chi viện nhiều cho miền Nam, đưa tới tình trạng miền Tây Nam Bộ và Bến Tre thiếu thốn vũ khí nghiêm trọng, và trước tình hình Mỹ-ngụy tăng cường càn quét liên tục, gây nhiều tội ác, giết người, đốt nhà, gom dân, hãm hiếp, súng ngựa trời đã được chế tạo để phục vụ cho nhu cầu tự vệ của quân dân Bến Tre và còn để giải quyết phần nào sự thiếu hụt vũ khí trầm trọng của Bến Tre.
Từ động cơ đó, các công trường sản xuất vũ khí lần lượt được xây dựng. Công trường tỉnh đặt ở xã Bình Khánh do hai ông Ba Tam và Ba Thành phụ trách đã sản xuất và thử nghiệm thành công "súng ngựa trời". Trận chiến đầu tiên súng ngựa trời xuất hiện không phải là một trận chống càn, mà chính là một trận tấn công, đó là trận đại đội 264 chủ động chặn đánh Mỹ-ngụy ở An Thạnh, An Hóa (xã Bình Khánh) vào đầu năm 1960.
Từ đó, không chỉ dùng cho phòng thủ chống càn, súng ngựa trời trong nhiều trường hợp còn được dùng để chủ động công kích, như trận phục kích ở ấp 6 Phước Hiệp, Bến Tre, năm 1960. Đó là địa điểm mà quân dân Bến Tre đoán chắc nhất định giặc sẽ đi qua. Họ liền tập trung số lượng lớn súng ngựa trời, đào công sự sát bờ mía, lấy lá mía ngụy trang trận địa. Khi Mỹ-ngụy lọt vào trận địa, các kiểu súng ngựa trời nổ đồng loạt vào đội hình của giặc. Du kích địa phương từ các hầm nhảy lên dùng mã tấu đánh giáp lá cà. Bị bất ngờ, Mỹ-ngụy tên nào còn sống sót là ném hết súng tháo chạy tán loạn.
Loại súng này sau đó được phổ biến rộng rãi ở miền Nam Việt Nam và được dùng rộng rãi ở miền Nam, đặc biệt sử dụng để tác chiến chống càn trong chiến tranh du kích ở đồng bằng sông Cửu Long đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Trong trận Phú Ngãi năm 1961, các đội nữ du kích huyện Ba Tri (Bến Tre) chỉ dùng súng ngựa trời mà chặn đứng, đánh lui một trận càn của quân đội Sài Gòn và các sĩ quan Mỹ.
Có hơn 40 kiểu súng ngựa trời, từ cực kỳ thô sơ (châm ngòi) đến hơi hiện đại (điểm hỏa điện), sau đây là một số kiểu thường thấy:
Bản gốc
Súng ngựa trời mà nhân dân huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre dùng để bắn chết 7 tên giặc năm 1960. Bản đã sơn sửa.
Súng ngựa trời quân đội Sài Gòn cướp được ở Kiến Tường năm 1961. Họ trưng bày chiến lợi phẩm ở Sài Gòn và chú thích là "hàng Trung Cộng". Lưu ý: Tất cả các vũ khí do quân giới Việt Nam chế tạo sau khi lọt vào tay ngụy và đem trưng bày, nếu vũ khí nào trông hiện đại thì họ chú thích là "hàng Nga Sô", còn vũ khí nào trông thô sơ thì họ chú thích là "hàng Trung Cộng".
Số phận của loại vũ khí này:
Về sau với sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu (nhất là Đông Đức), Bắc Triều Tiên và các đồng minh XHCN cho Việt Nam và sự chi viện từ Bắc vào Nam được đẩy mạnh, thì miền Nam dần không còn phải dùng tầm vông vạt nhọt, mã tấu, súng ngựa trời và các loại súng tự chế thô sơ để chống giặc. Súng ngựa trời về sau chỉ còn tồn tại trong viện bảo tàng và là một biểu tượng tồn tại trong ký ức của nhân dân về tinh thần tự lực tự cường trong kháng chiến chống xâm lược.
Thiếu Long
(tổng hợp)