Ẩn số Triều Tiên, quá khứ - hiện tại - tương lai (phần 2 và hết)
(Bình Nhưỡng, thủ đô của CHDCND Triều Tiên)
Tình hình hiện tại trên bán đảo Triều Tiên
(tiếp theo phần trước)
CHDCND Triều Tiên:
Chính trường Triều Tiên không có các thế lực đối lập. Diễn biến hòa bình không lọt vào được. Các thông tin chống đối không có cơ hội phát triển. Những chóp bu lãnh đạo yếu kém về tư tưởng chính trị, biến chất, tha hóa về lối sống đều bị đào thải, loại bỏ, thanh trừng, trừ khử. Những quan chức tham nhũng bằng 1/100 Việt Nam và Trung Quốc thì đã bị tử hình. Luật pháp nghiêm minh, pháp chế nặng nề. Đây thật sự là một chế độ cảnh sát trị và trị quốc bằng bàn tay sắt không cần bọc nhung.
Theo cuốn sách "Cha tôi Kim Jong Il và tôi" viết về Kim Jong Nam, con trai ông Kim Chính Nhật, của tác giả Yoji Gomi, nhà báo của tờ Tokyo Simbun của Nhật, từng có nhiều năm làm thông tín viên tại Hán Thành và Bắc Kinh, thì Kim Jong Nam cho biết nếu không cải tổ thì Bắc Triều Tiên sẽ sụp đổ.
Để thực hiện cuốn truyện này tác giả Gomi đã nhiều lần trao đổi với Kim Jong Nam qua thư từ và những lần phỏng vấn trực tiếp tại Macao, trong đó nhân vật này đã không ít lần đưa ra những nhận định, dự báo về chế độ Bình Nhưỡng. Người con cả của Kim Chính Nhật đặc biệt nhấn mạnh, chế độ Bắc Triều Tiên đang phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn, hoặc là thay đổi, hoặc là sụp đổ. Kim Jong Nam giải thích cái thế nan giải của chế độ là: "Không có cải cách, nền kinh tế sẽ sụp đổ. Nhưng cải cách sẽ dẫn tới khủng hoảng chính trị và sự cáo chung của chế độ".
Người anh cả cùng cha khác mẹ với tân lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Ân, vào giữa thập niên 1990 từng có cơ hội thừa kế quyền lực của cha, nhưng sau đó do có một số hành động bộc lộ tư cách không đàng hoàng và tính cách chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, nên bị thất sủng. Từ đầu những năm 2000 đến nay, Kim Jong Nam ra nước ngoài, lập gia đình, có hai con và sống một cuộc sống vương giả ở Macao.
Trong cuốn sách của nhà báo Nhật nói trên, Kim Jong Nam còn cảnh báo tình hình "Bắc Triều Tiên rất bất ổn". Ông nói rằng: "Cha tôi lãnh đạo đất nước bằng chính sách Tiên quân và sự ủng hộ của quân đội, nhưng quân đội lại có quyền lực quá lớn. Nếu việc kế thừa quyền hành thất bại, quân đội chắc chắn sẽ nắm thực quyền và chế độ sẽ biến thành độc tài, quân phiệt".
Trong cuốn sách này, tác giả cũng đã trích dẫn một bức thư trao đổi với Kim Jong Nam mới đây, trong đó người trưởng nam của ông Kim Chính Nhật chỉ trích việc chuyển giao quyền hành theo kiểu cha truyền con nối. Đồng thời, ông cũng hoài nghi về năng lực lãnh đạo đất nước của người em cùng cha khác mẹ là đại tướng Kim Chính Ân, vốn còn quá trẻ.
Xã hội quá thắt chặt về mặt giáo dục và an ninh nên xã hội hiếm có tội phạm. Các tổ chức tội phạm không thành lập nổi, súng đạn không lưu hành ngoài xã hội (luật pháp cấm vũ khí, vũ khí lậu không lưu hành nổi, do đặc thù kinh tế và khả năng kiểm soát kinh tế, chợ đen của nước này), không có tiền để tổ chức các thế lực đen, dù có manh nha thì cũng bị dập tắt ngay từ trứng nước.
Đường phố ít người đi, đô thị bao giờ cũng trống trải, không đi gần nhau nên khó xảy ra trường hợp móc túi, giật dọc, trấn lột. Vả lại văn minh đô thị ở Triều Tiên, đặc biệt là thủ đô Bình Nhưỡng khá tốt nên hiếm xảy ra những trường hợp đó. Hơn nữa cảnh sát nổi, cảnh sát chìm hầu như đâu đâu cũng có, cải trang thành đủ thành phần trong xã hội. Gần 40% dân số là đảng viên và có gắn huy hiệu Kim Nhật Thành khi làm việc, khoảng 10% là quân nhân, thuộc làu và thấm nhuần chủ nghĩa Kim Nhật Thành và tinh thần Chủ thể, nên khó biến chất thành tội phạm.
Bắc Triều Tiên lâu nay luôn nỗ lực xây dựng thủ đô Bình Nhưỡng như một "tủ kính" của đất nước, để khoe với du khách và đưa những hình ảnh này ra trước quốc tế. Xem hình thì thấy rõ thành phố này được quy hoạch rất tốt, hơn xa Việt Nam dù với bao nhiêu chuyên gia quy hoạch nước ngoài. Họ có đường phố khang trang, thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ.
Quân đội CHDCND Triều Tiên được thành lập chính thức vào ngày 8 tháng 2 năm 1948. Tiền thân của nó là lực lượng Quân Tình nguyện Triều Tiên, Quân Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, các lực lượng du kích chống Nhật, những cựu chiến sĩ người Triều Tiên phục vụ trong Hồng quân của Liên Xô và Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc. Một trong những nhà lãnh đạo của lực lượng du kích là Kim Nhật Thành, người đã tập hợp một nhóm khoảng 300 lính du kích Triều Tiên hoạt động chống phát xít Nhật ở Mãn Châu. CHDCND Triều Tiên có khoảng 3.700 xe tăng, 2.100 xe bọc thép, 4.800 bệ phóng tên lửa, 8.500 pháo tự hành 170 ly và 3.100 thiết bị vượt sông. CHDCND Triều Tiên có 9 sư đoàn thường trực, 4 sư đoàn cơ giới, 1 sư đoàn tăng, 1 sư đoàn pháo binh.
Lực lượng không quân và hải quân của CHDCND Triều Tiên không có gì ấn tượng bởi trang thiết bị và vũ khí đều quá niên hạn sử dụng. Không quân có 30 máy bay ném bom và máy bay trinh sát, 510 máy bay vận tải bao gồm cả máy bay AN-2s và 310 chiếc trực thăng. Tuy nhiên, không quân phải huy động khoảng 30 chiếc máy bay chiến đấu trong tổng số 820 chiếc máy bay tiêm kích để tham gia tuần tiễu. Hải quân có khoảng 60 tàu ngầm, 420 tàu chiến, 260 tàu vận tải và 60 tàu khác cùng 2 sư đoàn đóng ở vùng biển phía đông và phía tây với 12 đội tàu chiến và 2 lữ đoàn bắn tỉa trên biển đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Hải quân. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn sở hữu khoảng 2.500-5.000 tấn chất độc gây tê liệt hệ thần kinh, sát thương ngoài da, chất gây nôn và khí cay... Mỹ và Hàn Quốc còn cáo buộc Triều Tiên sở hữu vũ khí vi trùng và nghi ngờ họ sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Sách “Sổ tay Triều Tiên” do cơ quan tình báo CIA biên soạn tính toán: Năm 2002, CHDCND Triều Tiên chi cho quân sự 5 tỷ USD, đứng thứ 22 thế giới. Quân đội Triều Tiên có 1,17 triệu quân thường trực, chiếm 5% dân số, cộng thêm số quân dự bị đông tới 7,5 triệu người. Báo chí Hàn Quốc thì cho rằng CHDCND Triều Tiên đã đạt tới trình độ thành thục trong việc sản xuất các tên lửa tầm ngắn và tầm trung.
Bruce Benard, chuyên gia nghiên cứu của công ty tư nhân Rant (Mỹ) cũng tính toán: Đến năm 2010, CHDCND Triều Tiên có từ 70 đến 95 tên lửa Rodong-1, 50 – 75 Rodong-2, 150-200 tên lửa Taepudong-1, 25-50 tên lửa vượt đại châu. Hiện nay CHDCND Triều Tiên có khoảng 800 quả tên lửa đất đối đất các loại.
Tuy nhiên, giới quân sự trong và ngoài khu vực đặc biệt quan tâm tới kho vũ khí hạt nhân cũng như các loại tên lửa khác của CHDCND Triều Tiên. Giới quân sự đều cho rằng, sau khoảng 30 năm phát triển, công nghệ tên lửa của CHDCND Triều Tiên đã có những bước tiến đáng kể.
Bắc Triều Tiên sở hữu tên lửa Scud do Liên Xô chế tạo, có thể mang đầu đạn hạt nhân, hóa học hoặc sinh học, nhưng sau khi được đưa tới sử dụng tại CHDCND Triều Tiên một thời gian, các nhà khoa học nước này đã nâng cấp và biến nó trở thành cơn "ác mộng" đối với những quốc gia hữu quan.
Dù tiếp nhận tên lửa của Liên Xô từ năm 1969, nhưng những tên lửa Scud đầu tiên mà CHDCND Triều Tiên có được lại đến từ Ai Cập. Chính Ai Cập đã giúp CHDCND Triều Tiên nâng cấp, phát triển hệ thống tên lửa của mình. Đầu những năm 1980, Ai Cập đã cung cấp cho CHDCND Triều Tiên một số tên lửa Scud-B của Liên Xô, có thể mang đầu đạn nặng tới 200kg cùng tầm bắn 300 km. Nhờ đó các nhà máy nghiên cứu, chế tạo tên lửa được xây dựng gần biên giới Trung Quốc đã sản xuất thành công loại tên lửa tự tạo đầu tiên được biết tới dưới tên gọi Hwasong-5.
Năm 1987, CHDCND Triều Tiên đã ký với Iran một hợp đồng mua bán vũ khí với tổng trị giá 500 triệu USD, trong đó có khoảng 100 tên lửa Hwasong-5. Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất cũng từng mua 25 tên lửa Hwasong-5 cùng một số vũ khí khác của CHDCND Triều Tiên.
CHDCND Triều Tiên đã phát triển hai phiên bản mới từ Scud-B thành Scud-C (Hwasong-5) và Scud-D (Hwasong-6). Trong khi Scud-B chỉ bắn ở cự ly 300km thì Scud-C bắn được 500km, còn Scud-D có thể bắn mục tiêu cách xa 700 km. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn thử nghiệm loại tên lửa KN-02 có thể bắn tới những mục tiêu ở Hàn Quốc. Sau đó, CHDCND Triều Tiên còn phát triển Scud thành Nodong, Taepodong-1 và Taepodong-2. Tên lửa Taepodong-1 tuy bắn tới Nhật Bản, nhưng không nguy hiểm bằng loại tên lửa Nodong (Rodong). Với tầm bắn 2.000 km, các tên lửa Nodong có thể phá hủy bất cứ mục tiêu nào của Nhật Bản và bất cứ căn cứ quân sự nào của Mỹ trên lãnh thổ Nhật.
Theo nghiên cứu của một trung tâm hạt nhân Mỹ, Nodong có độ chính xác không cao - sai số từ 2 km đến 4 km so với mục tiêu. Tuy bắn không chính xác nhưng Nodong luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhật Bản bởi quốc gia này nằm trọn trong phạm vi "phát huy hiệu quả" của tên lửa này. Nhiều chuyên gia quân sự của Nhật Bản từng khẳng định, các loại tên lửa của CHDCND Triều Tiên dư sức tấn công Nhật Bản, Hàn Quốc, cũng như các căn cứ quân sự Mỹ đặt trên lãnh thổ 2 quốc gia kể trên. Triều Tiên thì tuyên bố họ có thể thiêu rụi Tokyo và Seoul thành "tro bụi" chỉ trong tích tắc, và có thể bắn tới Hawaii và Alaska của Mỹ nếu muốn.
Kể từ khi CHDCND Triều Tiên bắn thử tên lửa Nodong có khả năng mang đầu đạn hạt nhân vào tháng 3/1993, loại vũ khí này nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trong kho vũ khí của họ. Sau đó, Triều Tiên còn mời chuyên gia quân sự Iran và Pakistan tới quan sát vụ bắn thử tên lửa Nodong. Được biết, tên lửa Nodong có thể mang theo một đầu đạn nặng 1.200 kg cùng tầm bắn 1.300 km, hoặc một đầu đạn nặng 1.000kg với tầm bắn 1.500km. Có tin nói rằng, tên lửa Ghauri (còn gọi là Hatf-5) của Pakistan được nghiên cứu, chế tạo thành công sau khi mua tên lửa Nodong của CHDCND Triều Tiên.
Bộ Quốc phòng Hàn Quốc từng cho rằng CHDCND Triều Tiên sở hữu khoảng 600 tên lửa Scud và 100 tên lửa Nodong. Trong khi đó các nước phương Tây lại tuyên bố, CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 800 tên lửa đạn đạo các loại, trong đó bao gồm cả Taepodong-2. Nhưng theo thông tin của Mỹ thì CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 1.000 tên lửa Nodong và tên lửa Scud. Ngay từ năm 1965, Chủ tịch Kim Nhật Thành lúc đó đã cho thành lập Học viện Quân sự Hamhung để nghiên cứu công nghệ tên lửa nhằm sản xuất loại tên lửa có khả năng bắn tới Nhật Bản.
Giới truyền thông từng đưa tin, tướng Park Jae-kyung, tướng Hyun Chul-hee và tướng Lee Myong-su, 3 người thường xuất hiện bên cạnh Chủ tịch Kim Chính Nhật chính là những "cha đẻ" của chương trình vũ khí chiến lược hạt nhân và tên lửa tại CHDCND Triều Tiên. Ngoài ra, còn phải kể tới 2 nhà bác học Do Sang-rok và Seo Sang-guk. Cả 2 nhà bác học này đều từng giảng dạy tại Trường đại học Kim Nhật Thành cho dù họ hơn kém nhau tới 30 tuổi. Được biết, ông Do Sang-rok tuy sinh năm 1903 tại CHDCND Triều Tiên nhưng lại trưởng thành ở Hàn Quốc sau đó quay trở lại CHDCND Triều Tiên từ năm 1946 và đã chết năm 1990.
Ông Do Sang-rok được Chủ tịch Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật đặc biệt coi trọng, quý mến. Còn ông Seo Sang-guk được coi là người đi đầu trong việc chế tạo bom hạt nhân và từng được Kim Chính Nhật tặng quà năm 1998 vì những cống hiến cho công cuộc phát triển khoa học quốc gia.
Quân đội vừa đông đảo vừa tinh nhuệ, huấn luyện tốt. Tuy nhiên, một số vũ khí, nhất là xe tăng, thiết giáp đã lỗi thời và khá cũ kỹ. Có dàn phòng thủ tốt, vô số dàn tên lửa tầm ngắn, tầm xa đang chỉa thẳng vào các hải đảo, vùng biên giới của Hàn Quốc và cả Seoul, Tokyo, và có thể cả Hawaii và Alaska như họ tuyên bố. Đây là điều mà Mỹ - Nhật - Hàn rất ngán và chưa dám vọng động, gây chiến là vì vậy. Dù chiếm được Triều Tiên thì họ cũng sẽ phải trả một giá rất đắt, kinh tế vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau khủng hoảng có thể sẽ sụp đổ hoàn toàn, đưa tới thảm họa kinh tế khu vực và toàn cầu, lợi bất cập hại. Chưa kể Triều Tiên khá cuồng tín và bao giờ cũng sẵn sàng "lưỡng bại câu thương".
Hầu hết các vũ khí hạng nhẹ và cả hạng nặng của Triều Tiên là tự sản xuất, kể cả các vũ khí cá nhân và đặc biệt là các hệ thống tên lửa, vũ khí chiến lược của họ. Ngoài ra, họ còn có lực lượng vũ khí đặc biệt, cấu thành từ 2 bộ phận: Tác chiến và phòng chống chiến tranh hóa học; tác chiến và phòng chống chiến tranh sinh học. Hiện nay bộ phận này có hàng ngàn đạn pháo mang tác nhân sinh hóa, cũng như nhiều vũ khí sinh hóa có khả năng hủy diệt hàng loạt.
Để đối phó với những kẻ địch có sức mạnh quân sự, có thực lực kinh tế, có trình độ phát triển, và quân số cao hơn gấp nhiều lần, họ đã thực hiện chiến lược "chiến tranh phi đối xứng" (Asymmetric warfare) và chiến tranh không quy ước để chống lại những quân thù mạnh hơn, bằng cách sử dụng những khoa học kỹ thuật công nghệ và vũ khí đặc biệt, độc đáo như hệ thống phá (jam, gây nhiễu) định vị toàn cầu và sóng ra-đa, sơn ngụy trang tàng hình (một loại hóa chất đặc chế để tránh bị ra-đa phát hiện), tàu ngầm lưu động, ngư lôi cảm tử, và nhiều vũ khí hóa học, sinh học và tia laser, bất chấp lệnh cấm phát triển vũ khí laser của Liên Hiệp Quốc (mà CHDCND Triều Tiên là 1 thành viên) và việc họ đã ký vào Hiệp ước không phổ biến vũ khí sinh học.
Họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cuộc chiến tranh hóa học, chiến tranh khí tượng, chiến tranh điện tử mà Mỹ đã áp dụng tại Việt Nam và nhất là rất thành công ở Iraq (chiến tranh điện tử, gây tê liệt cho các vũ khí cần dùng hệ thống điện tử của Iraq, hầu hết các vũ khí mua từ Pháp của Iraq đều trở nên bất khiển dụng khi Mỹ mở cuộc đột kích bất ngờ).
Ngoài ra, họ cũng nghiên cứu và phát triển áp dụng chiến tranh mạng với Mỹ, có một số thông tin từ Mỹ cho rằng họ đã bí mật nghiên cứu chung với các lực lượng khủng bố Hồi giáo cực đoan về chiến tranh mạng với Mỹ. Đây là một lợi thế của họ, vì ở nội địa Bắc Triều Tiên không phổ biến mạng lưới Internet. Tương tự như chiến trường ngoài đời, trên chiến trường online trên Internet giữa các hackers, họ không có nhiều thứ để mất, trong khi Mỹ - Hàn - Nhật có rất nhiều thứ để mất. Chỉ một vài website giao dịch, của các tập đoàn kinh tế lớn, của chính phủ, nhà nước v.v. sụp đổ, tê liệt lâu ngày và liên tục thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế, đây gần như là vấn đề sinh tử của các nước có nền kinh tế thị trường.
Từ thập niên 1980, trong lúc Internet chỉ mới được sử dụng hạn chế trong quân đội Mỹ, chưa dân sự hóa, xã hội hóa, thì các điệp viên Triều Tiên đã tiến hành nghiên cứu và Bộ quốc phòng Bắc Triều Tiên đã bắt đầu phát triển dự án chiến tranh mạng. Tới năm 2011, Bắc Triều Tiên đã đào tạo được khoảng 1100 hacker quân sự, hackers đặc biệt. Đó là lý do lâu nay CHDCND Triều Tiên luôn ưu tiên cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu về kỹ thuật vi tính, ai bộc lộ tài năng về máy tính thì sẽ được chú trọng đào tạo về chuyên môn này và được miễn nhiều môn học khác.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng từng cáo buộc, kết tội Bắc Triều Tiên và Iran đã âm mưu tiến hành một cuộc chiến tranh ngầm, cuộc chiến tranh kinh tế để chống lại nước này bằng cách in "siêu đô la" (tờ $100 đô la Mỹ, tiền giả như thật, tiền giả siêu cấp chỉ có 1 ngân hàng trung ương của chính phủ Mỹ mới có máy phát hiện), hòng phá hoại nền kinh tế của Mỹ, nhất là trong các thời kỳ khủng hoảng.
Ngoài một vài nước như Trung, Nga, và vài nước trung lập ở châu Âu, Nam Mỹ, họ bất lực trong việc thiết lập được quan hệ ngoại giao rộng rãi với các nước khác. Do bị các cường quốc thao túng, ngồi trên đầu trên cổ, chèn ép, cấm vận, cô lập, họ phản kháng bằng lý thuyết Chủ thể của Kim Nhật Thành và áp dụng một chính sách "cứng chọi cứng", tự cô lập bản thân, đóng cửa. Cùng với những tuyên bố ngoại giao không mấy khôn khéo và có phần cực đoan quá khích, dễ bị lợi dụng làm công cụ tuyên truyền chống họ.
Xã hội trật tự, kỷ cương, kỷ luật sắt, nề nếp đâu ra đó. Ít tội phạm, ít tệ nạn, tệ đoan, buôn lậu, không có nạn ma túy, không có súng đạn bất hợp pháp, không mại dâm, không có bệnh Sida (theo phỏng vấn của một số phóng viên phương Tây ở Triều Tiên, nhiều người dân và chiến binh còn không biết bệnh Sida là bệnh gì, và không hề có khái niệm về đồng tình luyến ái). Môi sinh không bị ô nhiễm. Không kẹt xe. Ít tai nạn giao thông. Không người bụi đời vô gia cư, ăn mày, thất học, chỉ có dưới 1% mù chữ.
Nhưng trái lại quá mất tự do cá nhân, gần như biến con người thành những người máy. Điện thoại di động và Intranet có, nhưng không có đầy đủ Internet (có một ít trang mạng cho người nước ngoài đọc nhưng người trong nước không thể truy cập các trang mạng nước ngoài). Nghe phong thanh rằng bên trong Triều Tiên cũng có thể truy cập các trang web bên ngoài nhưng bị hạn chế, chỉ dành cho các nhân viên ngoại giao của chính phủ.
Bắc Triều Tiên xem chế độ gia đình là dấu vết phong kiến, và là một định chế, phong tục tập quán đã lỗi thời. Kim Nhật Thành từng nói: “Gia đình phải là một phòng thí nghiệm thực thi lý thuyết cách mạng xã hội." Tại Bắc Triều Tiên, trẻ em từ 3 tháng đến 5 tuổi được các ký nhi viện của chính phủ chăm sóc, từ 6 tuổi trở lên được đào tạo trong các trường học do chính phủ cung cấp.
Xã hội không có văn hóa lai căng từ ngoại quốc truyền vào. Về cơ bản vẫn giữ nguyên văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Cao Ly. Không "lộ hàng", không porn, không clip quay lén, không có những scandal xấu, nhìn chung cả xã hội có vẻ lành mạnh, không bị ô nhiễm bởi văn hóa tiêu cực, hiện sinh, yêu cuồng sống vội, quan hệ bầy đàn của phương Tây. Phim ảnh, sách báo khiêu dâm, truyện con heo, nha phiến, thuốc lắc v.v. không có môi trường phát triển. Không có các vũ trường thác loạn, nhưng vẫn có một số vũ trường hoạt động hạn chế, khiêu vũ như thời 1970, 1980, chủ yếu dành cho du khách nước ngoài. Tuy nhiên có phần bó buộc và thiếu tự do.
Căn cứ vào các clip trên Internet du khách nước ngoài quay trong các trường lớp Triều Tiên, thì có thể thấy các lớp học của họ rất ngăn nắp, sạch sẽ, trật tự. Thầy cô và học sinh đều vui vẻ tươi cười, hoạt bát nói chuyện, thông thạo Anh văn. Các bàn ghế gỗ mới. Nhiều phòng đại học có trang bị máy vi tính, laptop cho mỗi bàn học, đặc biệt là trường đại học Kim Nhật Thành, đại học chất lượng nhất cả nước, dành cho những học viên trung thành và ưu tú nhất trên toàn quốc. Các trường lớp có vẻ cũng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trường này có cả hệ thống hồ bơi được thiết kế khá đẹp mắt.
Theo hồ sơ về CHDCND Triều Tiên trong thư viện Quốc hội Mỹ (Library of Congress), thư viện lớn nhất nước Mỹ và một trong những thư viện lớn nhất thế giới, thì giáo dục tại CHDCND Triều Tiên là miễn phí cho đến hết đại học và bắt buộc cho đến trung học, từ năm 1990 bắt đầu cung cấp đồng phục miễn phí cho học sinh và sau đó là một vài y phục miễn phí cho toàn dân, luật Triều Tiên bắt buộc mỗi người dân ra đường phải ăn mặc tươm tất, để làm đẹp quốc gia, thành phố, nhất là trước con mắt và ống kính của khách du lịch và phóng viên quốc tế. Cách giáo dục áp dụng khả năng nghiệm suy để học sinh tích cực trong việc phát triển tính độc lập và sáng tạo của mình. Giáo dục bắt buộc kéo dài mười một năm, bao gồm một năm mẫu giáo, bốn năm giáo dục tiểu học và sáu năm giáo dục trung học.
Tại tiểu học, 8% của chương trình học là về chủ tịch Kim Nhật Thành và đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng. Tại trung học, các môn học về chủ tịch Kim Nhật Thành, đạo đức công dân, đạo đức cộng sản, và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản chiếm 5,8%. Cao học không bị bắt buộc tại CHDCND Triều Tiên. Nó chia thành hai hệ thống: Học tập giáo dục đại học và học giáo dục đại học để tiếp tục học cao hơn. Học tập giáo dục đại học bao gồm ba loại trường đại học, trung học chuyên nghiệp, và trường kỹ thuật. Tốt nghiệp thạc sĩ và nghiên cứu cấp tiến sĩ thuộc về trường đại học, hai trường đại học chất lượng cao đáng chú ý ở Triều Tiên là Đại học Kim Nhật Thành và Đại học Khoa học và Công nghệ Bình Nhưỡng, cả hai đều ở Bình Nhưỡng.
Trường Đại học Kim Nhật Thành gồm rất nhiều khoa như: Kinh tế, lịch sử, triết học, luật, ngoại ngữ (chủ yếu chú trọng vào tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung), văn học, địa lý, vật lý, toán, hóa, năng lượng hạt nhân, sinh học, và khoa học máy tính. Để bắt kịp thời đại thông tin, sinh viên đại học nào có tài về máy tính sẽ được miễn nhiều môn như lý, hóa, sinh, ngoại trừ môn học chính và môn "Lịch sử cách mạng của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật".
Bởi vì sự nhấn mạnh vào việc giáo dục liên tục cho tất cả các thành viên của xã hội nên việc giáo dục học tập khi trưởng thành hoặc làm việc nghiên cứu luôn được hỗ trợ tích cực. Trên thực tế, tất cả mọi người trong nước tham gia trong một số hoạt động giáo dục, thường là dưới hình thức "nhóm nghiên cứu nhỏ".
Đầu những năm 1990, người dân ở các vùng nông thôn đã được tổ chức vào "gia đình năm người", những nhóm này có chức năng giáo dục và giám sát. Nhân viên văn phòng và nhà máy có hai giờ để học thêm sau khi làm việc mỗi ngày về các chủ đề chính trị và kỹ thuật. Các "nhà máy kiến thức" được mở cho các công nhân học thêm các kỹ năng mới mà không cần phải nghỉ việc. Học sinh làm việc bán thời gian, nghiên cứu vào buổi tối, hoặc có những khóa học ngắn hạn chuyên sâu, có thể nghỉ làm việc trong một tháng hoặc lâu hơn. Các "nông trang kiến thức" cũng được mở nơi lao động nông thôn có thể học để trở thành kỹ sư và trợ lý kỹ sư. Đối với công nhân và nông dân không nhận được giáo dục phổ thông thì có "trường học cho người lao động" và "trường dạy nghề cấp cao người lao động".
Học sinh trung học phải làm việc ít nhất từ 8 đến 10 tuần lễ mỗi năm tại các xí nghiệp, các cơ sở kỹ nghệ. Ngoài những cơ sở giáo dục thường, đại học xí nghiệp được thành lập để đào tạo nhân công không có trình độ giáo dục phổ thông. Năm 1965, Bắc Triều Tiên có 37 trường Đại học Xí nghiệp với hơn 12.000 sinh viên, năm 1975, 80 trường với trên 23.000 sinh viên. Đại học Kim Nhật Thành, Hàn lâm viện Khoa học, Hàn lâm viện Khoa học Xã hội là những cơ sở giáo dục và nghiên cứu cao cấp, chất lượng tốt.
Nhà nước CHDCND Triều Tiên tổ chức 8.600 Vườn trẻ năm 1970 với khoảng 1,2 triệu trẻ em, 6.800 trường mẫu giáo với khoảng 950.000 em, đến năm 1980 số lượng Vườn trẻ và mẫu giáo lên đến 60.000. Triều Tiên còn trao đổi sinh viên và giáo sư, giáo viên với các nước như Liên bang Xô viết, Trung Quốc, Cuba, và các nước Đông Âu để du học, giảng dạy, nghiên cứu. Các giáo viên, chuyên gia, du sinh nước ngoài đều công tác và học hành trong Trường Đại học Kim Nhật Thành.
Theo hồ sơ công khai "The World Factbook" của cơ quan CIA năm 2009, Bắc Triều Tiên là một trong những quốc gia có học thức cao nhất trên thế giới, với một tỷ lệ biết chữ trung bình là 99%.
(Hán Thành, thủ đô của Hàn Quốc)
Hàn Quốc:
Tình hình chính trị của họ nhìn chung là khá ổn định nhưng nội bộ thường dễ mất đoàn kết, tranh giành quyền lực, tố nhau khá nhiều, đôi khi dùng những thủ đoạn dơ bẩn (dirty tactics) để ám hại nhau. Ai bất lợi cho Mỹ và phương Tây hầu như chỉ tồn tại được 1 nhiệm kỳ, sau đó đều "thất cử".
Nạn bạo hành đường phố, giật đồ, móc túi, trộm cắp, cướp bóc, trấn lột giữa ban ngày vẫn hoành hành. Những vụ án cướp của giết người, cưỡng hiếp, xâm hại tình dục xảy ra thường xuyên. Kinh tế phát triển cao nhưng đạo đức và các giá trị truyền thống càng lúc càng suy đồi và xuống thấp. Nhiều người bị nói xấu trên blog, bị gởi thơ đe dọa, đeo bám khủng bố tâm lý, khiến họ không chịu nổi phải tự tử. Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ tự sát cao nhất thế giới, nhất là trong giới nghệ sĩ, giải trí, hot boy, hot girl. Nhiều người bị bắt cóc biệt tích, đến nay vẫn không có tung tích. Trong số các nạn nhân có cả người Việt ở Hàn Quốc. Hầu hết đều bị mất tích một cách kỳ lạ và cảnh sát bất tài vô dụng không điều tra ra (hoặc giả có nguyên nhân mờ ám nào đó). Người Hàn Quốc bị bắt cóc nhiều nhất, sau là người Nhật. Các báo chí, truyền thông chính thống của Hàn Quốc thường quy kết và cáo buộc Bình Nhưỡng đã làm những hành động khủng bố này nhưng không có bằng chứng rõ ràng. Lạ một điều là hầu hết những nạn nhân bị bắt cóc đều là người châu Á (Hàn, Nhật, Hoa, Việt), hiếm có người phương Tây nào bị, và không có người Mỹ nào bị. Trong khi ở Bắc Triều Tiên, vốn thường được coi là "nơi nguy hiểm" thì lại chưa có ngoại kiều nào bị bắt cóc, cho thấy ở Nam Triều Tiên cũng không hẳn là an lành.
Quân đội Hàn Quốc, tên chính thức là Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc, ban đầu được xây dựng từ những tân binh, dân binh, nghĩa binh, lực lượng tự vệ được chính quyền mới của Lý Thừa Vãn tuyển mộ. Tuy nhiên, quân đội này đã bị quân đội Triều Tiên đánh tan trong giai đoạn 1 của cuộc chiến Triều Tiên. Sau trận tử thủ Phú Sơn, quân đội này về cơ bản đã tan rã, Mỹ và Liên Hiệp Quốc phải nhảy vào tiếp cứu. Trong giai đoạn 2 của cuộc chiến Triều Tiên, quân đội này không còn bao nhiêu thực lực.
Sau khi Hiệp định đình chiến được ký (16/5/1953), quân đội Hàn Quốc được tái thành lập và xây dựng lại từ đầu. Đến nay nước này có một lực lượng quân sự mạnh với mức đầu tư trong 10 nước đứng đầu (tính theo GDP). Lục quân Hàn Quốc có 670.000 binh sĩ, trong đó 140.000 lính nghĩa vụ và 4 triệu quân dự bị (theo thống kê của năm 2006). Số quân trên được phiên chế thành 3 quân đoàn, 11 binh đoàn, 49 sư đoàn và 19 lữ đoàn. Lục quân sở hữu 4.850 xe tăng, xe thiết giáp (trong đó đáng chú ý có loại T-80U, M48 Patton, K1, K1A1, K2 và XK2 Black Panther). 10.774 pháo các loại, 7.032 tên lửa (trong đó đáng chú ý có Patriot, MIM-23B Hawk và 3 loại tên lửa vác vai là Stinger của Mỹ, Mistra của Pháp và Javelin của Anh). Họ còn có khoảng 13.000 vũ khí bộ binh khác. Phương tiện chiến đấu chủ yếu của Hàn Quốc là xe tăng đổ bộ K-200 (KIFV) được thiết kế dựa trên phiên bản AIFV của Mỹ và được đưa vào hoạt động năm 1985.
Hải quân Hàn Quốc có 68.000 binh sĩ, trong đó có 25.000 thủy quân lục chiến cùng 170 tàu chiến các loại. Hải quân được chia thành 3 hạm đội. Do có Hạm đội 7 của Mỹ đóng gần Nhật Bản nên Hàn Quốc không chú trọng phát triển lực lượng hải quân. Nhiệm vụ chủ yếu của hải quân là phòng vệ ven biển. Tuy nhiên, Hàn Quốc thời gian gần đây rất chú trọng tăng cường sức mạnh cho lực lượng hải quân. Họ có hơn 20 tàu ngầm và 69 tàu chiến trên mặt nước
Không quân Hàn Quốc có hơn 600 máy bay các loại, trong đó có loại F-15K Slam Eagle do Boeing sản xuất và T-50 Golden Eagle. Họ chủ yếu được trang bị bằng máy bay sản xuất từ Mỹ, nhưng Hàn Quốc thời gian gần đây đã phát triển ngành công nghiệp sản xuất máy bay riêng của mình. Họ có 460 máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng, trong đó có 195 chiếc F-5 và 60 chiếc F-16, một số được lắp đặt trong nước. Quân đội Hàn Quốc có nhiều máy bay chiến đấu và vận tải. Hải quân cũng sở hữu phi đội bay hùng hậu.
Nhờ ưu thế của một nền kinh tế lớn nên quân đội Hàn Quốc luôn nằm trong danh sách những quốc gia đầu tư lớn cho quốc phòng, thậm chí có thời kỳ nước này nằm trong top 10 nước đứng đầu thế giới về ngân sách quân sự.
Theo phân tích của nhiều chuyên gia quân sự, Hàn Quốc sẽ sớm trở thành một trong 10 quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Khách hàng chủ yếu của Hàn Quốc là những quốc gia thuộc khu vực Trung Đông và đồng minh của Mỹ và họ chủ yếu mua súng tự động, máy bay và tàu hải quân.
Đây là một quân đội hùng mạnh trên giấy, thiện nghệ trong quân trường, tinh nhuệ trong tập trận. Nhưng chưa ai biết khi vào thực chiến thì sẽ thể hiện một phong độ chiến đấu ra sao. Kim Chính Nhật từng nói đại ý "đám bát nháo quân đội thuộc địa Hàn Quốc chỉ là những con hổ giấy không có gì phải sợ". Công nghiệp, quân đội, ngân sách, thực lực quốc phòng mạnh, khoảng 80% vũ khí tự sản xuất. Quân số, tỷ lệ quân - dân, tỷ lệ phần trăm ngân sách quốc phòng cũng thuộc loại cao. Vũ khí tối tân. Trang bị đầy đủ, hiện đại. Huấn luyện tốt, khoa học. Tinh thần và lý tưởng chiến đấu là một dấu hỏi, có đụng trận mới biết thấp cao.
Về công tác ngoại giao, Hàn Quốc khá khôn khéo và có quan hệ tốt đẹp và sâu rộng với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Trung Quốc, Nga, và Việt Nam. Họ có vị thế vững chắc và khá cao trong Liên Hiệp Quốc và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, họ yếu bóng vía trước Mỹ, nhường nhịn, lép vế Mỹ, làm gì cũng phải ngó mặt Mỹ, tham khảo ý kiến Mỹ.
Họ có nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới và thứ 3 châu Á. Tuy nhiên, cũng như bao nhiêu nền kinh tế tư bản khác, để cho tài phiệt tư bản, tư sản mại bản, tư bản nước ngoài nhiễu loạn, thao túng thị trường, do đó họ bị ảnh hưởng rất nặng nề và trực tiếp từ sự khủng hoảng kinh tế tư bản ngay khi nó mới bắt đầu lan ra từ Mỹ. Có phần tự do kinh tế quá trớn và kiểm soát kém, vai trò nhà nước không rõ ràng. Vụ thịt bò điên Mỹ được nhập khẩu Hàn Quốc bất chấp bao nhiêu cuộc biểu tình phản đối, cho thấy lợi ích của người dân Hàn, của tư sản dân tộc Hàn vẫn nằm dưới lợi ích tư bản phương Tây, đặc biệt là tư bản Hoa Kỳ.
Nếu như bên Triều Tiên cực đoan thắt chặt mọi thứ nhưng bù lại đưa ra kết quả khả quan về an toàn xã hội, an ninh văn hóa, thì Hàn Quốc cũng cấm đoán về chính trị, cấm cản, chặn website, đặt tường lửa các trang web thân Cộng, thân Triều Tiên, chống Hàn, các sách báo về chủ nghĩa Marx, nhưng các đặc điểm xã hội về môi trường, chống tệ nạn, an ninh, chống tội phạm, chống ma túy, thậm chí cả nếp sống văn minh đô thị cũng không bằng Triều Tiên.
Khi kinh tế phát triển cũng là lúc xã hội Hàn Quốc bắt đầu thay đổi, với những hiện tượng sau:
1. Tư tưởng truyền thống và đạo đức xã hội ngày càng xuống, xuất hiện khuynh hướng lai căng hóa, Mỹ hóa, Tây hóa.
2. Dân số kỹ nghệ ngày càng cao.
3. Biến chuyển xã hội nhanh chóng, nhịp sống nhanh hơn, xuất hiện lối sống gấp sống vội, và sự xuất hiện của giai cấp bóc lột mới, thụ hưởng trên sự lao động của công nhân.
4. Thành thị hóa và sự di chuyển dân thôn quê đến thành thị.
5. Tầng lớp trung lưu xuất hiện.
6. Khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng thu hẹp. Nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng.
7. Tuy phụ nữ chưa đạt được vị thế nam nữ bình quyền, nhưng vai trò của họ ngoài xã hội cũng như trong gia đình có tiến bộ nhiều. Vị thế của phụ nữ ngày càng nâng cao. Tuy nhiên tình trạng bán dâm kiểu mới và các đường dây mại dâm cao cấp bao gồm đa số diễn viên, ca sĩ, hoa hậu, á hậu, nhân vật của công chúng v.v. vẫn hoành hành. Rất nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo hành, cưỡng dâm, cưỡng bức tình dục trong điện ảnh, dùng tình dục đổi vai diễn, bằng cấp, danh vọng, tiếng tăm, tiền tài, vật chất và một số quyền lợi khác trong xã hội. Nhiều phụ nữ đã tự sát hoặc bị mưu sát vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những phụ nữ của công chúng. Hàn Quốc là một trong những nơi có tỷ lệ người tự sát cao nhất thế giới. Đời sống tình dục "thoáng" hơn, buông thả hơn, đức hạnh, trinh tiết không còn là một đức tính được xem trọng, mặc dù mức độ ly dị vẫn thấp so với mặt bằng thế giới, vì thế tỷ lệ ngoại tình tăng cao, đưa đến tỷ lệ đánh ghen, những vụ án ẩu đả, hành hung, đâm chém, đấu súng, giết người, đốt nhà, hãm hại, án mạng vì ghen tuông cũng tăng theo. Những phụ nữ quan hệ tình dục với người Mỹ, lính Mỹ bị dư luận xã hội tẩy chay. Trẻ em có cha Mỹ bị dư luận xã hội khinh bỉ, mặc dù không có sự bất bình đẳng trong chính sách chung.
8. Quan niệm, tác phong, phong thái hiện đại của xã hội mới, dần xa rời những lối mòn và hủ tục phong kiến, mê tín dị đoan.
Trong công việc quản lý văn hóa xã hội, họ cũng có những nỗ lực cấm đoán. Đăng ký blog phải điền lý lịch thật ngoài đời, các thông tin liên lạc thật, phải có thẻ căn cước cá nhân (ID)... Youtube Hàn Quốc có dạo bị chặn không thể truy cập. Nhưng vẫn là một xã hội khá xô bồ, một bộ phận thác loạn, có một dạo các nhân vật VIP trong làng giải trí đua nhau tự tử, và tình trạng tự tử này hiện vẫn còn. Văn hóa thiếu lành mạnh. Công nghiệp mại dâm, tình dục, phim porn, sách báo khiêu dâm (trong đó có cả truyện tranh dành cho thiếu nhi, gồm cả truyện Hentai khiêu dâm Nhật truyền vào Hàn Quốc) vẫn có đầy ở Hàn Quốc. Những văn hóa, văn hóa phẩm tiêu cực, độc hại ở Hàn Quốc hiện lây lan sang nhiều nước khác, trong đó có cả Việt Nam, đây là một vấn đề báo động.
Đa số người Triều Tiên theo Phật giáo, nhưng chính quyền Hàn Quốc lại thiên vị Tin Lành, do họ từng góp sức nhiều trong phong trào chống Nhật trong thời kỳ bị đô hộ, từng giúp đỡ, nuôi giấu nhiều chính trị gia, nhân sĩ, trí thức hoạt động kháng Nhật. Lý Thừa Vãn, tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc cũng theo đạo Tin Lành và có những chính sách biệt đãi, thiên vị cho Tin Lành ngay từ đầu. Sau đó nhiều tổng thống kế nhiệm cũng theo Tin Lành và có nhiều chính sách ưu đãi, ưu tiên cho tôn giáo này. Do đó mà ở Hàn Quốc thỉnh thoảng vẫn xảy ra các biểu tình lớn của giới Phật giáo, gồm các nhà sư, tăng ni và các Phật tử chống chính phủ, nhất là trong thời Lý Minh Bác, vốn cũng là một tín đồ Tin Lành. Đa số các cuộc biểu tình này không chỉ chống Tin Lành, chống Lý Minh Bác, chống chính phủ Hán Thành, chống chính sách của chính phủ, chống sự bất công về tín ngưỡng, đòi tự do tôn giáo, bình đẳng tín ngưỡng, mà họ còn chống cả sự tồn tại quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trên đất Hàn Quốc, họ cho rằng chính phủ Mỹ theo chủ nghĩa tư bản vật chất và thiên vị Thiên Chúa giáo nên muốn chống Phật giáo Hàn Quốc, đặc biệt dưới thời tổng thống Bush (cả cha và con).
Giáo dục ở Hàn Quốc có chất lượng rất cao. Đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều trường không thua kém các nước phương Tây. Nền giáo dục hầu như mô phỏng rập khuôn Mỹ, tuy nhiên đó chưa chắc là điều không tốt. Rất nhiều sinh viên Việt Nam đã, đang, và có kế hoạch sẽ nghiên cứu, du học tại Hàn Quốc.
Tương lai mờ mịt của bán đảo Triều Tiên
Có lẽ Mỹ sẽ không bao giờ dám động thủ với Triều Tiên như đã từng với nhiều nước khác trên thế giới. Không ai rõ bao nhiêu dàn tên lửa đang nhắm vào thủ đô và các thành phố lớn nhất của Hàn và Nhật, ngay cả Mỹ có thể cũng đang bị đặt trong tầm ngắm. Cũng không ai rõ Bắc Triều Tiên có tên lửa đầu đạn nguyên tử và vũ khí hủy diệt hàng loạt hay không. Nếu có thật mà nếu chiến tranh xảy ra thì Đông Kinh, Hán Thành chuẩn bị biến mất trên bản đồ thế giới. Mỹ - Hàn - Nhật không dại dột và dám mạo hiểm như vậy, trừ phi chính phủ nhà Kim tự sụp đổ.
Nếu đấu pháo, đấu tên lửa với nhau thì ai chịu kết quả thảm hại hơn? Triều Tiên đã chuẩn bị hơn 50 năm nay và xây dựng thủ đô Bình Nhưỡng đặc biệt để tránh bom, tránh pháo kích, tên lửa từ Nhật, Hàn, Mỹ. Trong khi Seoul và Tokyo lâu nay chỉ chủ yếu hưởng thụ và làm kinh tế. Seoul toàn là nhà cao tầng san sát nhau, chỉ dính vài miểng tên lửa sát thương cao là "thi đua" kéo nhau đổ nhào như Domino hết. Trong khi Bình Nhưỡng có nhiều hầm trú ẩn, những khu sinh hoạt dưới lòng đất đã được xây dựng từ lâu để chuẩn bị cho chiến tranh.
Mỹ, Hàn, Nhật lại đều là những quốc gia thích làm giàu, chú trọng làm ăn kinh tế là chính, thích hưởng thụ và sống hưởng thụ đã quen, lại sợ chết, sợ đau, trong khi Bắc Triều Tiên là một kẻ "cùi không sợ lở", "điếc không sợ súng", sẵn sàng "thí mạng cùi". Liệu Mỹ - Hàn - Nhật có sẵn sàng "dây với hủi", "cùng nhau rơi xuống nước", "ôm nhau chết chung"?
Do đó có lẽ sẽ không xảy ra chiến tranh Triều Tiên mà nhiều người lo sợ. Đơn giản là vì bao nhiêu tên lửa, vũ khí chiến lược của Bình Nhưỡng đang đặt Hàn Quốc, Nhật Bản trong tầm ngắm và vì thế Mỹ và 2 em trai sẽ không dám động binh.
Diễn biến hòa bình thì không len lỏi vào được để giật sập chế độ, vì Bắc Triều Tiên luôn kín cổng cao tường, đóng kín, đóng chặt. Diễn biến quân sự thì cũng không xong, không khéo họ sẽ phản ứng bằng cách phóng hỏa, dùng vũ khí nguyên tử. Bắc Triều Tiên đúng là một cái gai trong mắt Mỹ mà không biết cách nào nhổ đi.
Các chiến binh Triều Tiên tham chiến giúp Việt Nam trên chiến trường miền Bắc chống không quân Mỹ đã cho chúng ta thấy sức chiến đấu, tinh thần chiến đấu dũng cảm, gan lỳ của họ. Tuy nhiên, gần 20 vạn quân Hàn Quốc ở miền Nam Việt Nam thì cũng vô cùng tàn ác, thường xuyên tàn sát cả làng trong nhiều khu vực ở miền Nam VN. Các cựu sĩ quan ta sau này cho biết rằng không phải Pháp, không phải Mỹ, càng không phải ngụy, mà chính quân Nhật và quân Hàn Quốc mới là khó chơi nhất trong lịch sử chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hàn Quốc và Triều Tiên đều có những quân đội rất hiếu chiến, hiếu sát, và rất điêu luyện trong chiến đấu.
Về khả năng tự vệ trước sự tấn công của liên quân Mỹ, Hàn, Nhật và các nước: Phải hiểu rõ rằng tuy hiện nay quan hệ Triều Tiên - Trung Quốc không còn quá mặn nồng, thân thiết như trước đây, nhất là sau vụ Trung Quốc từ chối viện trợ cho Triều Tiên và cha con Kim Chính Nhật về nước sớm, hủy bỏ tiệc tiễn chân của Trung Quốc, sự ủng hộ quan điểm của Mỹ và phương Tây về vấn đề hạt nhân và khu vực của Trung Quốc mà Triều Tiên cho là bị phản bội, bị "đánh hội đồng" trên bàn đàm phán 6 bên v.v. Cũng như những khác biệt ngày càng sâu sắc gần đây giữa hai phía Triều Tiên - Trung Quốc. Nhưng một khi Triều Tiên bị tấn công thì có thể tin rằng chắc chắn Trung Quốc, vì lợi ích quốc gia và nhu cầu an ninh quốc phòng của mình, sẽ không làm một kẻ đứng ngoài dửng dưng khoanh tay đứng nhìn.
Vùng Mãn Châu rộng lớn và màu mỡ luôn là căn cứ hậu phương của Đảng Lao động Triều Tiên từ thời kháng Nhật đến nay. Các cộng đồng người Triều Tiên, người Hoa gốc Triều ở Mãn Châu rất đông và mạnh. Thế lực địa phương của họ rất mạnh nhờ sự chống lưng của chính phủ Triều Tiên. Có rất nhiều thanh niên từ Triều Tiên hiện đang lao động, công tác, hoặc du học tại đây. Có rất nhiều công ty của chính phủ Triều Tiên hoặc do tư nhân đứng tên làm chủ nhưng với sự đứng sau chống lưng và tài trợ của chính phủ Triều Tiên. Nhiều cơ sở liên doanh Trung Quốc - Triều Tiên cũng hoạt động kinh doanh tại đây. Đảng Lao động Triều Tiên cũng xem nơi này là nơi vươn ra ngoài trong lĩnh vực kinh doanh với các đối tác phi Hoa duệ khác. Nhiều tổ chức chính trị, văn hóa, kinh tế, hoặc cả quân sự trá hình của Triều Tiên đều ở đây.
Nhìn chung, Triều Tiên có cơ sở cực mạnh ở Mãn Châu. Kể từ khi phát xít Nhật cai trị tàn bạo, gây nhiều tội ác tại nơi này và được Hồng quân Liên Xô giải phóng họ khỏi tay phát xít, thì Mãn Châu có truyền thống cộng sản, thân Triều, thân cộng, thiên tả, chống Nhật, Mỹ và phương Tây. Các nhà cách mạng chống Nhật tiền bối của cộng sản Triều Tiên cũng đều hoạt động ở đây, trong đó có gia đình của Kim Nhật Thành. Chính quyền Triều Tiên cũng xây dựng hàng trăm cơ sở tại đây để làm một căn cứ vững chắc để nương náu tại đây khi cần. Những điều này cũng được chính quyền Bắc Kinh ngấm ngầm ủng hộ và hậu thuẫn, thậm chí hỗ trợ và giúp đỡ.
Cho nên, nếu bị tấn công vào và chiến bại thì họ có thể chuyển về đây và chắc chắn rằng nhà nước Trung Quốc sẽ giúp họ. Do đó, nếu muốn tiêu diệt chính thể Triều Tiên thì trước hết Hoa Kỳ phải thỏa hiệp được với Trung Quốc, tung ra những lợi ích béo bở và những "phần thưởng" hậu hĩnh và xứng đáng, đúng giá, để làm Trung Quốc phản bội và đâm sau lưng Triều Tiên. Tuy nhiên, vùng Đông Bắc Trung Hoa hiện nay là một trong những khu kinh tế quan trọng bậc nhất của Trung Quốc được đầu tư từ cả trong lẫn ngoài, nếu Triều Tiên bất ổn, hỗn loạn thì nó sẽ đón nhận làn sóng dân tỵ nạn tràn qua gây hậu quả nghiêm trọng. Cho nên dù Mỹ có bỏ ra cái gì cho Trung Hoa thì cũng khó thể bù đắp được những thiệt hại to lớn và lâu dài này. Cho nên khả năng chiến tranh thật ra rất thấp, các bên chỉ to tiếng ra oai với nhau để giành thế.
Trung Quốc không muốn chiến tranh gần nước mình như thế. Điều mà Trung Quốc ngán nhất hiện hay là một cuộc chiến tranh khốc liệt xảy ra ngay kế bên mình trong khi họ đang muốn tập trung phát triển kinh tế và quân sự. Trung Quốc cũng không đời nào muốn Mỹ vươn sát tới bên hông của mình, nhưng điều này sẽ thành sự thật nếu Bắc Triều Tiên thua, như vậy chiến tranh là rất mạo hiểm và phiêu lưu, phiêu lưu quân sự và phiêu lưu chính trị.
Trung Quốc cũng không bao giờ muốn một bán đảo Triều Tiên thống nhất. Họ muốn duy trì hiện trạng và lợi dụng Bắc Triều Tiên làm một vùng đệm an toàn, phòng tuyến an ninh. Họ muốn Bắc Triều Tiên tiếp tục dựa vào mình và làm tiền đồn ngăn chặn Mỹ - Nhật - Hàn và quyền lực Tây phương cho mình, ngăn cản không cho Mỹ tiến đến sát ranh giới Trung Quốc, ảnh hưởng nóng đến an ninh quốc gia, an ninh biên giới của họ.
Lưu ý Trung Quốc hiện đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Trung Quốc là công xưởng giá phải chăng cho tài phiệt Mỹ và là thị trường tiêu thụ lớn nhất của tư bản Mỹ. Quyền lợi, lợi ích của nhiều tập đoàn tư bản tài phiệt Mỹ gắn liền với Trung Quốc, ít nhất là trong thời điểm hiện nay. Vì vậy, hiện nay Hàn - Mỹ muốn đánh Triều Tiên thì phải chịu những trừng phạt kinh tế nặng nề từ phía Trung Quốc, lợi bất cập hại, lợi thì chưa thấy đâu, nhưng hại thì đã thấy trước rành rành ra đó, ít nhất là về kinh tế.
Mỹ thật ra rất nể, ngán, và khá e ngại trước Trung Quốc. Trước đây, Mỹ đã từng thỏa thuận hợp tác với PetroVietnam khai thác tài nguyên dầu mỏ trên Biển Đông, sau khi Trung Quốc phản đối thì Mỹ liền rút lại ngay ý định hợp tác với PetroVietnam. Nếu Mỹ không được Trung Quốc "ok" thì sẽ không có Chiến tranh Triều Tiên 2.
Hàn Quốc cũng không muốn xảy ra chiến tranh, năm 2010, khi Triều Tiên pháo kích vào đảo Diên Bình (Yeonpyeong) vài quả đạn pháo thôi mà đã gây cho chứng khoán Hàn Quốc vô cùng điêu đứng, tư bản Hàn Quốc, Mỹ và các nước phương Tây như muốn nghẹt thở, đứng tim. Chỉ cần dàn pháo biên giới của Triều Tiên cùng khai hỏa thì thủ đô Hán Thành của Hàn Quốc sẽ thành bình địa và bao công lao hồi phục khủng hoảng kinh tế sẽ thành "công cốc".
Triều Tiên không cần lo lắng thị trường chứng khoán sụp đổ. Họ chịu cực khổ đã quen. Họ không sợ gì hết. Họ không bị vướng víu bởi điều gì. Họ không còn lợi ích nào khác. Pháo binh Triều Tiên tập trung phần lớn ở biên giới, được đặt trong các hang động và hầm trú ẩn kiên cố, chỉ cần có hiệu lệnh là lập tức bắn ngay, Hàn - Mỹ chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra chưa kịp phản ứng thì thủ đô Seoul đã tan hoang.
Ước mơ thống nhất xa vời của dân tộc Triều Tiên
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh thì cơ hội thống nhất bán đảo Triều Tiên ngày thêm xa vời. Triều Tiên với vũ khí hạt nhân trong tay sẽ được Trung Quốc tận dụng tối đa làm lá bài mặc cả với Mỹ. Mỹ cũng dùng Hàn Quốc làm một quân cờ trong khu vực Đông Bắc Á để kìm hãm "sự trỗi dậy của con rồng Trung Hoa".
Trong một nước tư bản thì lợi ích kinh tế là trên hết. Nếu thống nhất thì kinh tế và sàn chứng khoán Hàn Quốc sẽ bị ảnh hưởng rất xấu, và phải gánh những bê bối kinh tế, lạc hậu lỗi thời của Triều Tiên, gánh lấy những hậu quả của Triều Tiên, nuôi hàng triệu miệng ăn của Triều Tiên. Đã có tiền lệ như thế ở Đức sau khi Đông - Tây sát nhập, tình hình Nam - Bắc trên bán đảo Triều Tiên có khi sẽ còn khủng hoảng hơn, có khả năng sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng lương thực, thậm chí khủng hoảng di cư, khủng hoảng giao thông.
Hàn Quốc muốn "money money money" hơn là muốn thống nhất. Hoặc giả "thống nhất" chỉ là chiêu bài đãi bôi để tranh thủ dư luận, tranh thủ lòng dân, lòe bịp mị dân, chứ thật sự họ có thật lòng thật dạ muốn thống nhất bán đảo hay không thì chỉ có họ biết trong lòng.
Ôn cố tri tân, xem lại lịch sử thì thấy dân tộc Triều Tiên từ xưa đã cho thấy bản tính bảo thủ, khó thay đổi của mình, vì vậy khi đã chia rẽ thì chia rẽ rất lâu, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm. Sự chia rẽ, phân hóa, và văn hóa cát cứ ly khai của Triều Tiên, không ai phục ai, có lẽ còn sâu đậm hơn cả Trung Hoa.
Trong thời Tam quốc ở Trung Quốc, sau khi họ Tư Mã và nhà Tấn tiêu diệt Đông Ngô, thống nhất Trung thổ, thì thời kỳ Tam quốc đã hoàn toàn kết thúc, trở lại ngay với chế độ phong kiến tập quyền và hệ thống chỉ huy tập trung trung ương. Trong khi đó, thời Tam quốc (3 nước Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La) ở bán đảo Triều Tiên thì tồn tại hàng trăm năm, trải qua rất nhiều đời vua, và đến thời Tân La Thống nhất thì các bộ hạ, dư đảng cũ của Cao Câu Ly và Bách Tế vẫn liên tục nổi dậy, vùng lên mưu khôi phục triều cũ, lòng dân trong những vùng ảnh hưởng của họ vẫn lưu luyến triều cũ.
Tàn dư của Cao Câu Ly lại nổi dậy chống Tân La và trong họ lại chia thành 2 phe, phe Tiểu Cao Câu Ly bị phe Bột Hải tiêu diệt và phe nào cũng tự nhận mình là người kế tục Cao Câu Ly. Trong thời gian thống nhất lỏng lẻo, thì triều đình Tân La cũng quản lý quân đội theo kiểu gia tộc chứ không có hệ thống chỉ huy tập trung theo mệnh lệnh của nhà nước trung ương.
Khi Tân La suy thoái thì hậu duệ, dòng dõi của Cao Câu Ly và Bách Tế lại vùng dậy, bán đảo Triều Tiên lại rơi vào thời Hậu Tam quốc với 3 nước là Tân La, Hậu Cao Câu Ly (còn gọi là Thái Phong), và Hậu Bách Tế. Gần 1000 năm, gần 10 thế kỷ chia rẽ sâu sắc dân tộc thành 3 thế lực đối chọi và cứ nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác.
Tại các nước lân cận, chia rẽ rồi cũng hết, còn ở Triều Tiên thì chia rẽ rồi lại chia rẽ tiếp với những lực lượng giống nhau hoặc là hậu duệ của nhau. Bất phục nhau và ân oán nối tiếp ân oán kéo dài không thôi. Dân Triều Tiên sống chủ yếu bằng cảm tính, cảm tình, và có lòng trung thành rất sâu sắc, và rất coi trọng yếu tố gia tộc.
Ôn cố tri tân thì những gì chúng ta thấy trên bán đảo Triều Tiên trong lịch sử hiện đại chỉ là sự lặp lại, tái diễn của lịch sử. Lịch sử hiện đại nối tiếp lịch sử truyền thống. Bán đảo Triều Tiên là một trong số các thuộc địa sau Thế chiến 2 và Chiến tranh lạnh bị chia cắt. Nhưng khác với thiên hạ, các nước khác một là thống nhất hẳn, hai là chia cắt luôn, còn họ thì lơ lửng, lưng chừng, thống nhất không ra thống nhất, chia cắt không ra chia cắt, chiến tranh không ra chiến tranh, hòa bình không ra hòa bình, vẫn chống báng nhau, đấu khẩu với nhau, nhưng không có một giải pháp nào cả. Rất giống thời Tam quốc hay thời Nam - Bắc triều đình trong lịch sử dân tộc Triều Tiên.
Ngoài sự phân chia về chính trị, địa lý, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thì ngay trong nội bộ 1 quốc gia, 1 triều đình, 1 nhà nước phong kiến Triều Tiên luôn tiềm tàng, âm ỉ nhiều mâu thuẫn nội tại, với những cuộc tranh giành quyền lực sâu sắc và có khi đưa tới đổ máu, đẫm máu.
Một phần lớn trong đó là sự mâu thuẫn giữa các thế lực tôn giáo và lợi ích của các bên hữu quan. Suốt 1000 năm lịch sử, các chế độ phong kiến Triều Tiên luôn có những sự cạnh tranh khốc liệt giữa 2 phái; Phật giáo và Nho giáo, nhiều lúc đưa đến tình trạng ám sát bí mật, chém giết, đem quân bản bộ đánh nhau công khai, công khai tranh giành quyền hành trong triều nội.
Chỉ đến khi nhà Triều Tiên thay thế Cao Ly thì mới quyết tâm đưa Khổng - Nho lên thành tôn giáo chính, giáo lý chính, dùng Khổng giáo để trị quốc thì nạn phân tranh, phân quyền giữa Phật - Nho mới tạm chấm dứt, nhưng nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng mâu thuẫn và khi có dịp là "xì hơi", bùng lên nội loạn.
Ngày nay, ở Bắc Triều Tiên thì không ai rõ ra sao, vì họ đóng cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng ở Nam Triều Tiên xưa nay luôn có nhiều mâu thuẫn nội bộ. Xưa thì thanh trừng đẫm máu, tiêu diệt đối lập, nay thì trong Quốc hội thỉnh thoảng có những vụ ẩu đả tay chân, chửi bới thô tục vào nhau và hành hung lẫn nhau, có khi dùng cả những hung khí, đồ vật để ném vào nhau và đập nhau. Sự mâu thuẫn tôn giáo tưởng chừng đã hết với thời đại văn minh hiện đại ngày nay, nhưng không, trong xã hội Hàn Quốc vẫn đang có mâu thuẫn quyết liệt giữa phe Phật giáo và phe Tin Lành của chính phủ.
Từ xưa tới nay Phật giáo Triều Tiên có truyền thống can thiệp vào chính trị, vào việc nước. Ngày nay, chính phủ Hàn Quốc đa số là dân Tin Lành và giới Phật tử không thể chen chân vào chính trường, không có nhiều vai trò về chuyện quốc sự, do đó họ dễ nảy sinh bất mãn.
Tại Hàn Quốc từ trước tới nay đã có rất nhiều cuộc biểu tình quy mô do giới Phật giáo, Phật tử phát động để đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, và chống lại "chính phủ Tin Lành", nhất là dưới thời tổng thống Lý Minh Bác. Rất nhiều vụ biểu tình báo chí chính thức của Hàn Quốc đã không đăng, người ta biết tin chủ yếu qua BBC Anh ngữ, blogs cá nhân, và một số phương tiện truyền thông của giới Phật giáo các nước.
Chính sách Ánh Dương
Chính sách Ánh Dương (Sunshine policy) là một chính sách ngoại giao tiến bộ của Hàn Quốc với sự hợp tác của CHDCND Triều Tiên. Chính sách này do cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung khởi xướng và tiến hành từ năm 1998. Chính sách này đã "phá băng" mối quan hệ băng giá giữa hai bên, nối lại chiếc cầu, khiến hai nước có quan hệ thân thiện, tốt đẹp, cởi mở với nhau hơn, tạo ra những đột phá quan hệ, những thắng lợi ngoại giao quan trọng.
Hai bên đã có cuộc tái ngộ lịch sử trong một cuộc hội ngộ lịch sử ở Bình Nhưỡng giữa Kim Chính Nhật và Kim Đại Trung vào tháng 6 năm 2000, cuộc gặp gỡ lịch sử sau gần 1 thế kỷ đóng cửa với nhau này đã tạo ra một số đột phá như: Một số hợp tác đầu tư, kinh doanh giữa 2 nhà nước và giữa CHDCND Triều Tiên với các công ty tư nhân lớn của Hàn Quốc. Khu công nghiệp chung Kaesŏng, nơi có các xí nghiệp nhà nước CHDCND Triều Tiên hợp tác kinh tế với các doanh nghiệp tư nhân Hàn Quốc, được xem là "Biểu tượng tình yêu giữa Bắc - Nam" (사랑의 표상). Những cuộc gặp mặt giữa các thân nhân hai miền Nam - Bắc v.v. Sau này các lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước nhiều lần gặp nhau trao đổi, trong đó có cả Kim Chính Nhật, Kim Đại Trung, Lô Vũ Huyễn đã gặp gỡ thân thiện và hữu nghị với nhau ở Bình Nhưỡng.
Chính sách này đã phát huy hiệu quả rất tốt, giúp hai bên xích lại gần nhau hơn, quan hệ hai quốc gia nồng ấm hẳn lên, công cuộc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên cũng có chuyển cơ tốt, cho đến khi Lý Minh Bác lên ngôi ở Hàn Quốc năm 2008, với chính sách và thái độ cứng rắn của mình, chính sách Ánh Dương đã bị vô hiệu hóa và không còn bao nhiêu tác dụng, làm cho tình hình khu vực lại căng thẳng và nóng lên.
Mục đích của chính sách Ánh Dương là để làm dịu đi thái độ ngoại giao và mềm dẻo hóa chính sách đối ngoại của CHDCND Triều Tiên đối với Hàn Quốc, bằng cách kêu gọi, động viên hai bên tăng cường đối thoại, "đối thoại không đối đầu", coi nhau như huynh đệ một nhà, người chung một nước, coi hai bên ngang nhau, bình đẳng, công bình với nhau, chứ không phải như kẻ thù v.v. và trợ giúp kinh tế (gồm viện trợ và đầu tư) đi kèm với viện trợ nhân đạo (lương thực) mà không đi kèm với điều kiện chính trị. Tách bạch vấn đề chính trị (kể cả vấn đề hạt nhân) và vấn đề kinh tế ra riêng, xem hai vấn đề này là độc lập với nhau.
Người Hàn Quốc đặt tên "Ánh Dương" cho chính sách này là dựa theo một thần thoại cổ xưa của dân tộc Cao Ly, với nội dung đại khái là Gió và Nắng thi xem ai làm cho người không mặc áo đó nữa, gió càng thổi mạnh thì người vì lạnh mà giữ chặt áo, nắng ấm áp nên người cởi áo để hưởng nắng ấm.
Chính sách Ánh Dương có 3 nguyên tắc chính:
1. Bất cứ thái độ khiêu khích, kích động, gây hấn quân sự nào của CHDCND Triều Tiên và cả Hàn Quốc đều không được dung thứ.
2. Hai bên sẽ cố gắng dùng biện pháp để hàn gắn, hòa giải, nối lại quan hệ, từng bước tiến tới thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng biện pháp đàm phán hòa bình và công bằng cho hai bên, không bên nào được "nuốt chửng" bên nào, không bên nào được dùng bạo lực vũ trang quân sự để thâu tóm bên kia.
3. Hàn Quốc và cả CHDCND Triều Tiên sẽ liên tục tìm kiếm sự hợp tác, và giải quyết mọi khúc mắc, mọi vấn đề bằng giải pháp đàm phán và đối thoại ôn hòa.
Hàn Quốc trấn an Triều Tiên là họ không có ý đồ thâu tóm Triều Tiên vào lãnh thổ dưới quyền mình hay muốn lật đổ chế độ CHDCND Triều Tiên, mà trước tiên là hai bên phải tồn tại trong hòa bình, rồi từng bước tính chuyện thống nhất về sau.
Chính phủ Kim Đại Trung cũng đưa ra 2 vấn đề chính, bổ sung cho 3 nguyên tắc trên. Một là phân biệt rạch ròi, minh bạch và rõ ràng giữa chính trị và kinh tế. Điều này có nghĩa là Hàn Quốc sẽ nới lỏng việc cấm vận kinh tế, nới lỏng việc cấm đoán, hạn chế những doanh nghiệp tư nhân Hàn Quốc vào làm ăn ở Bắc Triều Tiên. Hai bên sẽ hợp tác về sản xuất tại những khu công nghiệp chung ở Triều Tiên và hợp tác du lịch ở một số thắng cảnh thiên nhiên đẹp ở Triều Tiên. Đồng thời gia tăng viện trợ nhân đạo không điều kiện.
Hai là đòi hỏi sự đáp lễ và "biết điều" từ phía Bình Nhưỡng, không được gây sự, khiêu chiến, khiêu khích quân sự, kích động chiến tranh, phải thay đổi chính sách thù nghịch, đối địch với Hàn Quốc, chấm dứt những đe dọa thô bạo, hai bên cần coi nhau như anh em một nhà, hai bên đối xử công bình với nhau, xem nhau là ngang hàng, thông hiểu, kiên nhẫn và nhường nhịn lẫn nhau nếu cần. Hết sức tránh xung đột, chiến tranh, bạo lực, dùng đối thoại và thái độ ôn hòa để giải quyết mâu thuẫn, khác biệt.
Viện trợ nhân đạo (lương thực) chủ yếu cho Triều Tiên không phải Mỹ, Trung Quốc, Nga, châu Âu mà chính là Hàn Quốc. Hiện nay Hàn Quốc vẫn viện trợ cho Triều Tiên rất nhiều thông qua Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations - FAO). Chính phủ Hán Thành thời Lý Minh Bác thì nói rằng họ muốn viện trợ đến được với người dân, làm xúc tác để hòa hợp và thống nhất dưới chính sách Ánh Dương chứ không muốn dùng viện trợ đổi hòa bình. Tổng thống Lý Minh Bác muốn đồng nhất vấn đề chính trị và kinh tế, trái ngược quan điểm của tổng thống Kim Đại Trung trước đây.
Có những vấn đề của bán đảo Triều Tiên và khu vực nên được tách bạch từng vấn đề một. Theo quan điểm của Hàn Quốc và đa số các nước liên quan, kể cả Nga, Trung Quốc, thì quá trình thống nhất là vấn đề thuộc về quan hệ liên Triều, thuộc chính sách đối ngoại giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên. Tiến trình phi hạt nhân hóa và nỗ lực hòa bình, ổn định trong khu vực thì liên quan trực tiếp đến họ, nhưng hai anh lớn Mỹ - Trung mới đóng vai trò lớn nhất, ngoài ra Nhật và Nga cũng có vai trò không nhỏ. Theo quan điểm của CHDCND Triều Tiên thì vật cản của sự nghiệp thống nhất, trở ngại lớn nhất của sự nghiệp thống nhất chính là sự hiện diện của Mỹ, Mỹ không muốn hai nước hợp nhất, chỉ cần Mỹ rút lui khỏi Hàn Quốc thì bán đảo Triều Tiên mới có thể thống nhất.
Quan điểm của tổng thống Hàn Quốc Lý Minh Bác là: Thống nhất, hòa giải, và hòa bình lâu dài là mục tiêu của chính sách Ánh Dương chứ không phải là "Giữ quan hệ 2 nước nồng ấm bằng viện trợ vô điều kiện". Hàn Quốc không thể dùng tiếp tục dùng tiền thuế của dân để "nuôi hổ cắn mình", "dưỡng hổ di họa", để cho không những kẻ dùng tiền của mình nuôi quân đánh mình. Chúng tôi không thể lạm dụng tiền thuế dân tôi để nuôi bọn độc tài, gia đình trị, hiếu chiến, phong kiến v.v.
Cộng với việc nhiều người người dân Hàn xót tiền thuế của họ nên đã phản đối chính sách này, cho nên trong thời gian cầm quyền của Lý Minh Bác, chính sách này dần chỉ còn là "hữu danh vô thực", như cái xác vô hồn và dần đi vào dĩ vãng.
Năm 2006, sau khi Bắc Triều Tiên thử nghiệm hạt nhân và thử tên lửa, Hàn Quốc ngừng ngay viện trợ nhân đạo và đặt toàn quân vào tình trạng báo động. Khi đó dư luận Hàn Quốc và quốc tế đều cho rằng chính sách Ánh Dương không thể tiếp tục sau những hành động vi phạm những thỏa thuận cơ bản trong chính sách Ánh Dương. Tuy nhiên, tổng thống Lô Vũ Huyễn là một người ôn hòa, có cảm tình và có xu hướng thân Triều Tiên, nên vẫn cố gắng giữ lại một số yếu tố trong chính sách Ánh Dương, gồm đặc khu du lịch chung Kŭmgangsan (Kim Cương sơn) và đặc khu kinh tế chung Kaesong vẫn sẽ tiếp tục.
Tuy nhiên, sau khi ông Lý Minh Bác lên kế nhiệm, đã có thái độ quyết liệt, cứng ngắt, lên án CHDCND Triều Tiên và tuyên bố Triều Tiên muốn Hàn Quốc tiếp tục hợp tác trong khu công nghiệp Kaesong thì phải giải trừ vũ khí hạt nhân ngay lập tức. Bắc Triều Tiên điên tiết, tiếp tục "xù lông nhím" bắn thử một loạt tên lửa chiến lược để vừa thử nghiệm và huấn luyện, vừa thách thức và đe dọa, đồng thời "làm giá", nâng cao giá trị phe mình.
Năm 2009, sau khi Bình Nhưỡng thử nghiệm hạt nhân, quan hệ hai nước, hai miền đã đóng băng hoàn toàn. Tháng 11 năm 2010, Bộ Thống Nhất của chính phủ Hàn Quốc chính thức tuyên bố chính sách Ánh Dương đã thất bại, và chính thức đóng lại chính sách này.
Tháng 1 năm 2011, trước tình hình tổng thống bảo thủ Lý Minh Bác có thái độ cứng rắn, cực đoan với Triều Tiên, chính phủ CHDCND Triều Tiên, Mặt trận Dân chủ Thống nhất Tổ quốc, các đảng phái chính trị (Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Thanh hữu Thiên đạo, Đảng Dân chủ Xã hội Triều Tiên) và các tổ chức CHDCND Triều Tiên đã có một tuyên bố chung với các đảng chính trị và các tổ chức Nam Triều Tiên về những đề nghị quan trọng như sau:
1. Chúng tôi lịch sự đề nghị tiến hành đối thoại rộng rãi và thảo luận với các đảng chính trị và các tổ chức Nam Triều Tiên, bao gồm cả các cấp các chính quyền Nam Triều Tiên.
2. Chúng tôi sẵn sàng bất kỳ vào lúc nào và bất kỳ ở đâu gặp gỡ với những ai có mong muốn cùng chúng tôi cho dù quá khứ của nó như thế nào.
3. Chúng tôi mong muốn thảo luận và giải quyết trên cơ sở đối thoại và thảo luận tất cả các vấn đề liên quan đến những công việc quan trọng của dân tộc, trong đó có vấn đề giải trừ tình hình căng thẳng, đảm bảo hòa bình, hòa giải, đoàn kết và hợp tác.
4. Trong giai đoạn này vì mục đích xây dựng bầu không khí nhằm cải thiện các quan hệ liên Triều chúng tôi đề nghị cấm dứt các cuộc chiến dịch vu cáo chống đối lẫn nhau và không thực hiện các hành động có thể khiêu khích phía bên kia.
Tuy nhiên, chính quyền Lý Minh Bác đã thẳng thừng bác bỏ và từ chối mọi đàm phán, gặp gỡ, trao đổi với phía Bắc Triều Tiên.
Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa
Hai bên trên bán đảo Triều Tiên xưa nay không bên nào có chính nghĩa vượt trội phe kia và vì vậy không phe nào chiếm được lòng dân hoàn toàn, và hai bên giằng co mãi đến ngày hôm nay, bất phân thắng bại. Cũng chẳng có phe nào hội đủ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa để giành chiến thắng tối hậu và thống nhất lãnh thổ.
Năm 1950, Triều Tiên có lợi thế "thiên thời" hơn khi thời ấy đang có không khí chiến tranh từ Thế chiến 2, thiên hạ vẫn quen với chiến sự, Hàn Quốc thì lúc đó yếu hơn rất nhiều từ kinh tế đến quân sự, chính trị rối ren bất ổn, các thế lực cực hữu trong chính quyền Lý Thừa Vãn xâu xé, thanh trừng, hãm hại lẫn nhau để tranh quyền. Lúc ấy thế đứng của phe XHCN đang rất mạnh và cũng ngang ngửa với phe TBCN. Chủ nghĩa thực dân cũ đã tan rã, chủ nghĩa đế quốc bị thoái trào.
Khi tiến quân tấn công Hàn Quốc, quân đội Triều Tiên được trang bị tốt với 13 vạn quân, vượt xa quân số Hàn Quốc, và hơn 200 xe tăng bao gồm nhiều xe tăng T-34 của Liên Xô, họ bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom tấn công. Quân đội Lý Thừa Vãn yếu hơn và thiếu thốn rất nhiều trang bị nếu đem so với quân đội Kim Nhật Thành.
Quân đội của Lý Thừa Vãn chỉ có khoảng 6 vạn binh lính nhưng chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ, không có lấy 1 chiếc xe tăng và không có bao nhiêu xe thiết giáp và pháo binh. Hàn Quốc cũng không có máy bay tiêm kích, hoặc bất cứ vũ khí chống tăng nào. Do đó họ chỉ còn nước thúc thủ giương mắt ngó hàng loạt xe tăng Triều Tiên trùng trùng điệp điệp kéo vào thủ đô Hán Thành, mạnh ai nấy chạy. Quân Triều Tiên tiến như chẻ tre vào thâu tóm Hán Thành.
Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành hoạch định tốt và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Kaesŏng, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin nối đuôi nhau thất thủ, từng thành phố từng địa điểm, từng vòng đai phòng thủ đều sụp đổ theo kiểu Domino. Hàng loạt tướng tá cao cấp nhất của Lý Thừa Vãn ra đầu hàng tướng Kim Nhật Thành.
Hàn Quốc bị thua sút về quân số, khả năng chiến đấu, cũng như trang bị, lại thiếu lý tưởng chiến đấu và bất trung với chính phủ họ Lý, hầu hết đều tan hàng rã ngũ hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên, quay mũi súng chống lại họ Lý. Không quân Triều Tiên oanh tạc và đổ bộ chiếm đóng phi trường Kimpo gần Hán Thành. Sau đó nhanh chóng chiếm đóng thủ đô của Hàn Quốc mà không gặp sự phản kháng nào đáng kể. Các chiến dịch quân sự hoàn thành dễ dàng và gọn gàng.
Ngay cả khi quân Liên Hiệp Quốc và không quân Mỹ đổ bộ vào Phú Sơn, Quân đoàn 8 tác chiến cạnh Hàn Quốc và lập vành đai tử thủ, và oanh tạc các vòng vây của Triều Tiên thì ưu thế chiến cuộc vẫn thuộc về Kim Nhật Thành.
Lực lượng Đặc nhiệm Smith của Hoa Kỳ, một thành phần của Sư đoàn 24 Bộ binh của Mỹ đóng ở Nhật Bản lớ ngớ đến Osan và đã bị quân đội tinh nhuệ và quả cảm của Triều Tiên đập tan tành không còn manh giáp. Sư đoàn 24 của Mỹ bị tiêu diệt gần phân nửa quân lực, bị buộc phải rút quân về thành Taejeon cố thủ nhưng sau đó không lâu cũng bị quân Triều Tiên tiến đến đánh tan.
Nhưng sau đó, do một chút sơ hở và thiếu một hệ thống tiếp vận hoàn chỉnh, nên khi bị danh tướng Douglas MacArthur của Mỹ chơi đòn đánh úp vào hông, bất ngờ đột kích ban đêm vào vùng Incheon, vấn đề nhiên liệu, đạn dược, lương thảo đã từ khó khăn trở thành ác mộng đối với quân Triều Tiên vốn đang phải chiến đấu đường dài. Trung quân tan vỡ, hậu quân và tiền quân không thể phối hợp và tiếp ứng nhau. Tiền quân bị kẹt trong vùng ảnh hưởng của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Thế là Triều Tiên toàn quân tan vỡ, đại quân bị đánh bại ở khắp các trận tuyến, liên quân LHQ liên tục phản công quyết liệt và đánh đuổi quân Triều Tiên lúc ấy đang vừa đánh vừa lui.
Quân Triều Tiên rất thiện chiến, tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu cao, nhưng đó chỉ được phát huy cao độ trong thời gian đầu chiến cuộc và khi họ đang trên đà thắng lợi. Đến khi thiếu lương, thiếu đạn, bị phản công, bị thua những trận sau đó thì họ bắt đầu xuống tinh thần, giống như một con nghiện đang hưng phấn đột nhiên thuốc hết hiệu lực. Họ bị hụt hẫng, bị sốc và xuống tinh thần ghê gớm, không còn lòng nào chiến đấu, tất cả đều sụp đổ, vừa đánh vừa chạy, từ đại thắng thành thảm bại trong nháy mắt.
Cái mất tinh thần mạnh nhất là khi đang thắng mà bỗng dưng ào ào thua. Như một đội bóng đang gác ba bốn trái nên chủ quan, tự tin rằng phen này ta ăn chắc, không ngờ hiệp 2 đội bạn phản công quyết liệt và bất ngờ giành lại ba bốn bàn thắng và gỡ hòa. Lúc ấy mới thật sự là không còn chút tinh thần nào chiến đấu. Trường hợp của Triều Tiên năm 1950 cũng là như thế, sau khi bị đột kích vào Incheon và thiếu hụt lương thực, đạn dược, nhiên liệu và bị tổn thất nặng nề, toàn quân bị sụp đổ theo kiểu Domino. Nhóm này thua kéo theo nhóm kia. Sư đoàn này thua làm sư đoàn kia thua theo.
Toàn bộ quân lực Triều Tiên đều tập trung vào Hàn Quốc những mong đánh cú dứt điểm, làm một canh bạc phiêu lưu quân sự. Nhưng ông ta đã thua canh bạc này, toàn quân tập trung tấn công Hàn Quốc nên ở nhà không còn bao nhiêu quân phòng thủ, đây cũng được xác định là chiến dịch tấn công nên không có bất cứ kế hoạch phòng thủ nào, số quân ít ỏi ở Triều Tiên cũng chỉ lo việc gìn giữ an ninh trật tự trị an và mong ngóng tin chiến trường phía Nam và lơ là việc phòng thủ. Do đó, khi quân Hoa Kỳ thừa thắng xông lên, vượt qua vĩ tuyến 38 đánh vào lãnh thổ Triều Tiên thì họ bị thua rất nhanh, không còn sức chiến đấu và cũng không còn lòng nào mà chống trả. Họ đã vắt cạn hết sức lực cho chiến trường phía Nam, và giờ đây họ đã kiệt lực.
Đó là nguyên nhân Triều Tiên thua trong cuộc chiến 1950-1953, dùng toàn lực tấn công, bị thua, đối thủ dùng toàn lực phản công thì cạn sức chiến đấu, thủ đô Bình Nhưỡng bị chiếm giữ, nếu quân Trung Quốc không tiến vào cứu nguy thì có thể ngày nay đã không tồn tại quốc gia CHDCND Triều Tiên.
Nhiều bạn hỏi thời đó quân đội Triều Tiên được các chuyên gia quân sự đánh giá là quân đội thiện chiến nhất thế giới, mà họ còn đại bại như vậy, thì ngày nay nếu Mỹ đánh vào như xưa thì làm sao họ chống nổi? Thật ra không hẳn là vậy, ngày nay, Triều Tiên tuy thực lực không còn được như xưa, nhưng họ tập trung phòng thủ, họ đã xây dựng một hệ thống phòng thủ chu đáo và chặt chẽ suốt hơn nửa thế kỷ qua. Chiến lược của họ ngày nay là pháo kích, tên lửa, chứ không còn thiên về dùng bộ binh đánh vào như xưa. Cho nên việc tấn công vào Triều Tiên ngày nay, nếu có, cũng chắc chắn sẽ không được thuận lợi suông sẻ như xưa, vì không có sự "thừa thắng xông lên", "chuyển bại thành thắng", và Bắc Triều Tiên trống vắng quân phòng thủ, mở cửa hớ hênh như trong Chiến tranh Triều Tiên năm xưa.
Thời đó Triều Tiên chỉ nắm ưu thế "thiên thời" hơn địch thủ một chút, nhưng không có ưu thế "địa lợi" và "nhân hòa" nên không thắng được, lại sơ hở, sai lầm về chiến lược nên đang thắng lớn thành ra thua to. Thời nay, cả hai phía bán đảo Triều Tiên đều không ai quá hơn ai về các yếu tố thiên - địa - nhân kể trên.
Về thiên thời, thời nay đang là thời đại hòa bình và cạnh tranh kinh tế, hơn là cạnh tranh chính trị và quân sự, không có cái thế, cái đà để phát động chiến tranh. Tuy nhiên, Hàn Quốc có lợi thế hơn do họ có dư luận quốc tế đồng tình và sự ủng hộ từ các thế lực lớn, họ có quan hệ ngoại giao tốt đẹp về cả chiều rộng và chiều sâu với hầu hết các nước lớn. Trong khi đó, Triều Tiên bị cô lập về mọi mặt, từ quân sự, kinh tế, đến ngoại giao.
Về địa lợi, Triều Tiên có lợi thế về mặt phòng thủ khi nơi đây có nhiều rừng núi chưa được khai phá mở mang đô thị hóa như bên Hàn Quốc, thuận lợi cho chiến tranh du kích một khi Hàn Quốc tiến công vào đây. Triều Tiên gần nửa thế kỷ hòa bình qua cũng đã nghiên cứu rất kỹ càng, tỉ mỉ để khai thác triệt để các yếu tố địa lợi cho hệ thống phòng thủ. Các vùng núi cao đều có các căn cứ quân sự, pháo binh, các dàn tên lửa, sẵn sàng nã pháo vào các mục tiêu, kể cả Seoul hay Tokyo, họ cũng tuyên bố tên lửa tầm xa của họ có thể đến được Hawaii và thậm chí Alaska của Mỹ.
Nhưng bất lợi về mặt phát triển kinh tế khi ở đây chỉ có khoảng 15% đất là có thể phục vụ cho canh tác. Tài nguyên thiên nhiên kém cỏi, nhất là về nông nghiệp, mặc dù gần đây người ta khám phá ra mỏ uranium ở Bắc Triều Tiên. Thiên tai, mất mùa, bão lụt liên tục. Về điểm này, Triều Tiên không bằng Hàn Quốc. Nhưng yếu tố địa lợi của Hàn Quốc hầu như chỉ phục vụ cho kinh tế, không phục vụ nhiều cho phòng thủ.
Về nhân hòa, cũng bên tám lạng, người nửa cân, không bên nào có ưu thế vượt trội bên nào. Hai bên đều tuyên truyền tốt, hai bên đều kiểm soát chặt chẽ các thông tin và ngăn chặn các thông tin bất lợi cho chính phủ. Triều Tiên chỉ có Intranet, không có Internet đầy đủ. Hàn Quốc thì mở blog phải đăng ký bằng thẻ căn cước, khai báo lý lịch, tên họ, địa chỉ, rất nhiều website bị chặn, các sách báo về CNXH, thân Cộng, thân Kim, thiên tả, hay chỉ trích chính phủ, nói lên những tiêu cực của CNTB đều bị cấm ngặt và đặt ngoài vòng luật pháp.
Hàn Quốc mở cửa hơn, có danh nghĩa "gìn giữ hòa bình", lo cho đời sống kinh tế của nhân dân tốt hơn Triều Tiên. Tuy nhiên đời sống nhân dân Triều Tiên ở các thành phố lớn, nhất là "tủ kính" Bình Nhưỡng, vốn quy tụ toàn là những gia đình có công với chế độ, trung thành tuyệt đối với chế độ, và ưu tú nhất Triều Tiên thì đời sống không đến nỗi nào.
Theo một số người thân Cộng phương Tây đã từng du hành, làm việc, công tác tại Triều Tiên cho biết nước này hiếm có tội phạm, không có tội phạm lớn có tổ chức, xã hội cực kỳ ổn định và an toàn, nhiều nhà ở thôn quê tối ngủ không đóng cửa (cũng có thể giải thích rằng họ nghèo quá còn gì mà sợ mất).
Không có những tệ nạn hút chích xì ke, băng đảng, xã hội đen, Mafia, giang hồ, dân anh chị, hiếp dâm như ở các nước khác. Không có nhiều người hút thuốc, rượu chè, nhậu nhẹt. Hầu như không có ăn chơi buổi tối, khi đêm đến là đa số dân chúng đều tắt đèn đi ngủ để giữ gìn sức khỏe và tiết kiệm điện lực (không muốn tiết kiệm thì cũng bị cắt điện, không có cách nào khác), chính vì vậy mà về đêm, vệ tinh chụp hình bán đảo Triều Tiên thấy các nước chung quanh thì sáng rực đèn, trong khi Triều Tiên lại chìm trong bóng tối.
Nghèo nàn, lạc hậu, đời sống khó khăn, bị khủng hoảng lương thực v.v. nhưng bù lại giáo dục (cả đại học và các trung tâm dạy nghề, dạy kỹ thuật) và y tế đều miễn phí. Theo một quan chức Tây Ban Nha hiện đang công tác ở Triều Tiên trả lời đài ABC Mỹ thì ở Triều Tiên nghèo đói là có, nhưng không có ai thất nghiệp, ai cũng được phân phối việc làm, không có dân vô gia cư và không có ăn mày. Môi trường không bị ô nhiễm. Hiếm có người thất học, mù chữ. Hiếm tệ nạn xã hội, tệ nạn văn hóa, tai nạn giao thông. Quy hoạch cực tốt, đặc biệt ở thủ đô Bình Nhưỡng.
Mặc dù nghèo, nhưng giáo dục đại học được đầu tư cẩn thận, chu đáo, trường đại học Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng hội đủ tiêu chuẩn quốc tế và trong các phòng học, mỗi bàn học đều có máy tính và gần đây đã được trang bị laptop. Hệ thống giáo dục ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ được đánh giá là không thua kém bất kỳ hệ thống giáo dục nào trên thế giới. Có đầy đủ báo chí, sách vở tiếng Anh dành cho du khách, đa số các nhân viên nhà nước, các đảng viên đều nói được tiếng Anh cơ bản. Họ nghiên cứu sâu sắc và kỹ càng mọi mặt về Hoa Kỳ, từ trong ra ngoài, từ A đến Z.
Nhiều người nghèo Triều Tiên trốn sang Hàn Quốc, định cư một thời gian thì đều không thích ứng nổi với cuộc sống ở Hàn Quốc, không hội nhập nổi vào xã hội Hàn Quốc, không xin được việc làm, và có rất nhiều người tự tử. Tỷ lệ người tự tử, thất nghiệp, ăn xin, bạo hành trong cộng đồng Bắc Triều Tiên ở Hàn Quốc cao hơn rất nhiều so với người Hàn Quốc và các cộng đồng dân tộc khác ở Hàn Quốc.
Theo báo điện tử Chosun Ilbo ở Hàn Quốc, có khoảng 1500 học sinh người tỵ nạn Bắc Triều Tiên ở Hàn Quốc, đa số họ khó thích nghi, hội nhập và bị phân biệt, kỳ thị, khinh khi, coi thường, có nhiều trường hợp còn bị ngược đãi, hành hung, đánh hội đồng. Nguyên nhân thì chủ yếu từ sự kỳ thị Bắc - Nam do văn hóa đã có nhiều khác biệt sau gần 1 thế kỷ xa cách nhau, cô lập với nhau, cả giọng nói, tiếng nói, và cách dùng từ ngữ, thậm chí cả cách viết cũng có nhiều khác biệt. Những người tỵ nạn này cũng chịu sự khinh bỉ, chửi mắng, xa lánh, tẩy chay, gọi họ là "phản bội", "hèn hạ", "nhục nhã" v.v. từ một bộ phận người dân có cảm tình với CHDCND Triều Tiên, chán ngán chính phủ Hàn Quốc, căm ghét sự dính líu của Hoa Kỳ và sự có mặt của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc.
Những di dân Triều Tiên trước khi hòa nhập với cuộc sống mới đều trước hết phải trải qua những lớp học dài ngày để tẩy não và nhồi sọ. Nếu Hàn Quốc có chính nghĩa rõ ràng và được nhân dân ủng hộ hơn thì sao còn mở những lớp học đó để tẩy não, nhồi sọ dân nhập cư Triều Tiên làm gì? Nếu họ thật sự chán ghét chế độ Kim Chính Nhật, nếu họ thật sự ủng hộ Hàn Quốc hơn, nếu Hàn Quốc quả thật là "chính nghĩa", là "sự thật", là "ánh sáng" thì còn phải làm chuyện đó hay sao, khi người ta thoát khỏi "địa ngục Bắc Hàn" và tới được "bến bờ tự do" thì họ đương nhiên là phải sung sướng một cách tự nhiên, tự nguyện, và ủng hộ Hàn Quốc, quay sang chửi bới vạch trần, phanh phui Triều Tiên chứ? Mở lớp học nhồi sọ làm gì nữa? Thế thì có thật sự là Hàn Quốc được lòng dân hơn, và dân tình chống đối chính quyền ở Triều Tiên hay không?
Một phần do chính sách bưng bít nhiều thông tin của Triều Tiên vô hình trung tạo cơ hội cho Hàn Quốc tha hồ bịa đặt, tô vẽ, thổi phồng. Nhiều người tỵ nạn Triều Tiên sau khi đến được Hàn Quốc trả lời phỏng vấn cho biết sau khi tới Hàn Quốc họ mới "nhận ra" và "biết được" thông tin này thông tin kia ở Triều Tiên, mà thật ra chỉ là những thông tin chưa được kiểm chứng và trong đó có nhiều thông tin không hợp lý và không chính xác, đậm tính giật gân. Ví dụ thông tin cho rằng Bắc Triều Tiên bưng bít lai lịch Công giáo của gia đình Kim Nhật Thành (thật ra ông nội và cha của Kim Nhật Thành cải trang thành mục sư Tin Lành để che tai mắt mật thám Nhật và cũng để tiện bề ra vào nhà thờ hoạt động hội kín, lập các cơ sở bí mật trong nhà thờ), thông tin Kim Chính Nhật có nhiều thế thân và người đi gặp tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung và Lô Vũ Huyễn chỉ là thế thân của họ Kim (làm sao anh biết và từ đâu anh biết việc này?), Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật quan hệ tình dục bừa bãi với phụ nữ xong giết họ bịt miệng, Kim Jong-nam lôi nữ sinh lên phòng đại học để hãm hiếp, Kim Nhật Thành tắm chung với tập thể cô gái trẻ để lấy sinh khí nhằm được trường sinh bất lão v.v. đều là những thông tin ai nghe cũng thấy khó tin, chưa có nguồn khả tín nào ủng hộ, đậm tính lá cải, nhưng dân tỵ nạn Bắc Triều Tiên thì tin răm rắp và cho rằng vì bị bưng bít nên họ mới không biết được những tin đó, họ cảm ơn các cơ quan chiến tranh tâm lý của Hàn Quốc đã giúp họ "nhận ra sự thật", "minh bạch sự thật bị che giấu lâu nay". Họ chưa bao giờ tự đặt câu hỏi vì sao họ ở ngay trong Bắc Triều Tiên mà họ còn không biết mà những người ở ngoài lại có thể biết.
Hàn Quốc đã mở rất nhiều chiến dịch thông tin, chiến dịch tuyên truyền, lập ra nhiều trang web bôi đen hình ảnh Triều Tiên. Họ khai thác, tận dụng và lợi dụng vũ khí người tỵ nạn và mượn lời họ kể tội, bôi nhọ Triều Tiên, trong đó có những câu chuyện không phải từ người tỵ nạn mà do ban biên tập hư cấu dựa trên vài sự kiện. Họ "xã hội hóa", "dân sự hóa" quốc sách tuyên truyền chống Triều Tiên, lập ra rất nhiều hội đoàn, tổ chức, câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu v.v. và lôi kéo cả những thiếu niên, thanh niên vào cuộc, khai thác và lợi dụng góc độ nhân đạo của vấn đề để phục vụ cho mục đích tuyên truyền chiến tranh tâm lý. Không những "quốc nội hóa" các chiến dịch thông tin chống Triều Tiên, dưới danh nghĩa "giúp đỡ người tỵ nạn", "chung tay với nhân dân Bắc Triều Tiên", nhờ ưu thế của một nền kinh tế phát triển, họ còn có tham vọng muốn "quốc tế hóa", họ bỏ tiền ra thuê nhiều người nước ngoài dịch các website và sách báo chống Triều Tiên ra nhiều thứ tiếng, đặc biệt là tiếng Anh, Trung, Pháp, Tây Ban Nha. Và cũng hợp tác với Hoa Kỳ để chuyển ngữ một cách chuyên nghiệp từ tiếng Hàn sang tiếng Anh.
Họ cũng dùng một "chiêu" mà trước đây Mỹ hay dùng (và hiện vẫn đang áp dụng với người tỵ nạn Cuba) đó là dụ dỗ hợp tác xuất bản sách, những ai viết hồi ức, hồi ký, về những "trải nghiệm kinh hoàng" của họ ở "địa ngục trần gian" kia, nơi họ vừa thoát khỏi, thì sẽ được thưởng công, trả công hậu hĩnh qua hình thức "tiền nhuận bút". Đối với những người kém văn hóa, thì sẽ có chuyên viên giúp đỡ, kềm kẹp, gợi ý, biên tập, chỉnh sửa. Kém hơn nữa thì sẽ có những nhà văn, nhà biên tập chuyên nghiệp hợp tác viết, hoặc viết hoàn toàn dựa trên lời kể của nhân vật tỵ nạn, rồi khi xuất bản sẽ để tên tác giả là nhân vật tỵ nạn, hoặc đồng tác giả có tên của nhân vật tỵ nạn, trong khi thực tế người này không phải là người viết.
Những sách, truyện ký, hồi ký, hồi ức về đất nước bí ẩn Triều Tiên luôn rất hấp dẫn và khơi gợi sự tò mò nơi người đọc, vì thế những cuốn sách này luôn bán chạy. Thế là hai bên cùng có lợi, với "tác giả" thì được số tiền "nhuận bút" khổng lồ (nhiều nhân vật tỵ nạn ở Hàn Quốc không nghề nghiệp, khó thích nghi, ít tiền bạc, túng thiếu, nghèo khổ, khi được "ai đó" đến tiếp cận với gợi ý thì họ dễ nhận lời), với chính phủ Hàn Quốc thì những thông tin tuyên truyền được truyền đi một cách gián tiếp và có sức lôi cuốn và thuyết phục cao khắp trong nước và lan ra cả quốc tế.
Triều Tiên và những người ủng hộ họ thích khai thác quá khứ chống Nhật để làm cơ sở chính nghĩa, chính danh cho Triều Tiên. Nhưng sự thật là họ đánh không thắng Nhật ngoài một vài trận nhỏ, chiếm được vài đồn lính. Cuộc chiến giữa quân kháng chiến Kim Nhật Thành và Nhật lại không diễn ra nhiều trên bán đảo Triều Tiên. Họ chủ yếu chống Nhật ở Mãn Châu, Trung Quốc, và các vùng biên giới Trung - Triều, gần sông Áp Lục. Như vậy cuộc chiến chống quân phiệt Nhật của lực lượng Kim Nhật Thành không mang tính toàn dân, không phải là cuộc chiến tranh nhân dân. Họ không hề đánh bại đế quốc Nhật, không phải là lực lượng chiến thắng Nhật, không phải là lực lượng đã giải phóng bán đảo Triều Tiên khỏi tay Nhật. Chẳng qua phe Đồng minh đánh bại phe Trục, Nhật đầu hàng nên họ trở thành một trong những lực lượng bản xứ được "ăn theo". Sau khi quân Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo thì đảo này vẫn là một vùng đất vô chủ, chưa ai thành lập nhà nước và quốc gia.
Hàn Quốc có một trong những ngân sách quốc phòng cao nhất thế giới và là một trong tiềm lực quân sự mạnh nhất thế giới. Với một nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh và giàu kinh nghiệm, từ năm 1990 khi bắt đầu tập trung chế tạo vũ khí hiện đại thì họ đã có hơn 70% vũ khí, đạn dược, quân phục tự làm, ngày nay đã có hơn 80% vũ khí hạng nặng do họ tự chế. Quân số tuy không đông bằng Triều Tiên, nhưng vô cùng thiện chiến, hiếu chiến và hung hăng, có thể thấy mức độ hiếu thắng, say máu, khát máu, tàn độc, vô nhân đạo của quân Hàn Quốc khi họ tham chiến giúp Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Về kinh tế, Hàn Quốc nhờ Mỹ và phương Tây giúp đỡ, đã có một nền kinh tế lớn thứ 3 châu Á và top 10 thế giới. Tuy nhiên về chính trị thì họ vẫn còn lệ thuộc, chịu lép trước Mỹ, nhường nhịn Mỹ quá đáng và thường đấu đá nội bộ, tham nhũng tiêu cực. Chính trị và xã hội không được ổn định, an ninh như Triều Tiên (tuy nhiên điều này cũng chưa chắc vì Triều Tiên không cho thế giới bên ngoài thấy nhiều về họ). Xã hội Hàn Quốc hay xảy ra những cuộc biểu tình chống Lý, chống Tin Lành, chống sự đóng quân của Mỹ, chống tổng thống, đốt xe, và bị cảnh sát dùng gậy gộc, hơi cay đàn áp. Có những cuộc biểu tình, tuần hành đã biến thành bạo động và có đổ máu.
Về phía Triều Tiên, với tình hình hiện nay, với thực lực hiện thời, họ không đủ sức để đánh sang Hàn Quốc thống nhất quốc gia, và trên các phương tiện truyền thông thì họ cũng không tuyên bố gì về việc sẽ đánh qua Hàn Quốc bằng quân đội. Nhưng họ tuyên bố khẳng định rằng nếu Hàn Quốc và đồng minh mà dám đụng đến Triều Tiên thì Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ thành "tro bụi", một số thành phố của 2 bang Mỹ là Alaska và Hawaii cũng sẽ thành đống "gạch vụn". Như vậy có vẻ họ không có ý định đánh Hàn Quốc bằng quân lực, nhưng nếu cần thì họ sẵn sàng đánh vào Hàn Quốc bằng đại pháo, tên lửa, biến Hán Thành thành biển lửa, san bằng các vùng phụ cận thành bình địa bằng vũ khí chiến lược của mình.
Triều Tiên với rất nhiều dàn tên lửa chất lượng cao và không ai biết có gắn đầu đạn hạt nhân hay không. Mật vụ Triều Tiên hoạt động tốt, xã hội thắt chặt, khắt khe, kỷ luật quá cũng khiến CIA bó tay thúc thủ không thể dò ra được là thật ra Bình Nhưỡng có sở hữu vũ khí hạt nhân hay không, đã làm ra được vũ khí hạt nhân hay chưa, và nếu có thì bao nhiêu?... Đây là những vũ khí chiến lược rất nguy hiểm của Triều Tiên mà Hàn Quốc không dám đụng tới, phải cân nhắc thật kỹ nếu muốn khai chiến với Triều Tiên.
Suốt hơn 50 năm qua, tận dụng thời gian hòa bình tạm bợ này, Triều Tiên đã xây dựng được một hệ thống phòng thủ vô cùng cẩn mật và vững chắc. Triều Tiên có nhiều đường hầm chống không và các khu mua bán, khu vực sinh hoạt dưới lòng đất, sẵn sàng đối phó lâu dài với không lực đối phương.
Đường phố thì có ít người, dân chúng được tuyên truyền giáo dục rất kỹ và được huấn luyện "kế thanh dã" (tiêu thổ, vườn không nhà trống). Hàn - Mỹ khó mà "dùng chiến tranh nuôi chiến tranh" ở đây. Chỉ có khoảng 15% đất ở Triều Tiên là có thể canh tác, tài nguyên thiên nhiên rất kém, nếu đánh Triều Tiên thì Hàn Quốc không có xơ múi, thu lợi gì được nhiều ở đây mà còn phải vận chuyển nhân lực, vật lực vào Triều Tiên để lo việc bình định, thậm chí phải "nuôi" hộ mấy triệu dân Triều Tiên, lo cho mấy mươi triệu miệng ăn ở Triều Tiên, vốn gần 1 thế kỷ nay đã quen với cơ chế quan liêu bao cấp và kinh tế tập trung, chỉ huy, mệnh lệnh. Kinh tế của Hàn, Nhật, Mỹ vốn vẫn chưa thoát hẳn khủng hoảng, lại sẽ càng khủng hoảng sâu sắc hơn.
Triều Tiên có nhiều tảng đá ngàn cân đặt sẵn trên các gò cao kế bên các lề đường, khi có chiến tranh sẽ dùng máy móc đẩy những tảng đá đó rơi xuống giữa đường, chung quanh lại toàn rừng núi, xe tăng liên quân không có đường chạy.
Quân địch tiến vào Bình Nhưỡng thì sẽ phải chinh phục từng căn nhà một. Thủ đô Bình Nhưỡng là "tủ kính" của chế độ, là căn cứ vững chãi của chế độ, với những người tuyệt đối trung thành với gia đình họ Kim, những người ưu tú đều di cư đến đây hoặc đã ở sẵn nơi đây. Đời sống Bình Nhưỡng cũng tạm ổn nên người dân nơi đây giữ vững niềm tin và sự trung thành đối với chính quyền. Đa số dân Bình Nhưỡng đều là đảng viên hoặc có người thân là đảng viên, quân nhân.
Mỗi căn nhà ở Bình Nhưỡng và các vùng phụ cận, và một số thành phố lớn đều là một ổ tự vệ phản kháng hữu hiệu. Mỗi ngôi nhà đều có trang bị những công cụ quân sự cơ bản, có đường hầm tránh bom, chỉ cần chính phủ phát súng cho dân thì mỗi người dân sẽ thành một người chiến sĩ, mỗi căn nhà sẽ thành một thành trì chống địch. Mỗi nhà đều có hầm trú ẩn. Một số nhà có hầm chữ A, trước đây Triều Tiên đã tặng phát minh "hầm chữ A" này cho Việt Nam, mô hình hầm chữ A này đã giúp quân dân ta rất nhiều trong kháng chiến chống Pháp - Mỹ.
Do được dạy dỗ tinh thần hận Mỹ, thù Mỹ, bài Mỹ lâu ngày. Hầu như toàn dân già trẻ lớn bé Triều Tiên đều căm thù Mỹ thấu xương tủy. Trẻ con mẫu giáo nào ở Triều Tiên cũng thuộc lòng những bài hát trẻ em có nội dung chống Mỹ, giết Mỹ. Ai cũng biết trước 1953 Mỹ đã bom Triều Tiên không còn một căn nhà như thế nào, đã thảm sát hãm hiếp, gây ra bao nhiêu tội ác với nhân dân Triều Tiên như thế nào, và đã cấm vận tra tấn hành hạ Triều Tiên đến tận ngày nay như thế nào, đã chôn sống tập thể các thôn dân như thế nào, Lý Thừa Vãn và Phác Chung Hy tàn ác thế nào, Lý tổng thống đã bắt dân Triều Tiên đi lính Hàn Quốc như thế nào. Đến nỗi họa sĩ nổi tiếng Picasso phải vẽ bức tranh "Massacre in Korea", một tác phẩm nổi tiếng của ông nói về sự thảm sát ở Triều Tiên khi quân Mỹ và Liên Hiệp Quốc kéo sang đó.
Như vậy, nếu Hàn Quốc tự mình kéo qua đánh Triều Tiên thì không sao. Nhưng nếu có mặt lính Mỹ thì sẽ phải đối đầu với một đối thủ có khi còn cuồng tín, cuồng chiến, hung hãn, cảm tử hơn cả quân phát xít, quốc xã ngày xưa hay các lực lượng Hồi giáo cực đoan Trung Đông thường ôm bom cảm tử, tử vì đạo ngày nay.
Quân đội Triều Tiên là một quân đội thiện chiến, tinh nhuệ, bản lĩnh chiến đấu rất cao, kỷ luật sắt, tinh thần tư tưởng vững mạnh, tư tưởng chính trị vững vàng, tinh thần sẵn sàng quyết tử quyết chiến, kỹ năng tác chiến cá nhân và tập thể rất cao và ăn ý, được trang bị vũ khí cá nhân khá tốt.
Trong thời Chiến tranh Lạnh, quân đội Triều Tiên được báo Times và BBC Luân Đôn đánh giá là thiện chiến nhất, xếp hạng trước cả Hồng quân Liên Xô và quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Triều Tiên có chương trình huấn luyện như khổ sai, dễ chết nhất, nguy hiểm nhất, và thuộc loại kinh hoàng nhất trong các hệ thống quân sự thế giới. Mỗi chiến sĩ Triều Tiên đều là những chiến binh thép và khá cuồng tín nhưng lại rất kỷ luật.
Quân đội Triều Tiên được như vậy là nhờ truyền thống chống quân Quan Đông rất tàn ác và thiện chiến của phát xít Nhật. Khi đã quen thuộc chống nhau với quân chủ lực Quan Đông mỗi ngày thì không còn biết sợ đội quân nào khác. Một phần lớn quân nhân Triều Tiên thời đó cũng từng có kinh nghiệm chiến đấu trong Hồng quân Liên Xô, đội quân thiện chiến nhất thế giới thời ấy, sự thiện chiến tinh nhuệ của Hồng quân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tác chiến của quân đội Triều Tiên. Có nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Triều Tiên cũng từng phục vụ trong hàng ngũ Hồng quân, mà chủ tịch Kim Nhật Thành là một trong số đó.
Quân đội Triều Tiên vẫn giữ nguyên các chương trình huấn luyện thời chiến, tương tự như thời chống Nhật, chống phát xít đó. Và vẫn giữ các bài huấn luyện khổ sai đó. Những bài huấn luyện như "Đi dây tử thần" rùng rợn trong chương trình của Hoa Kỳ mà tân binh nào của Mỹ cũng ngán sợ, thật ra chỉ là một bài tập cơ bản của Triều Tiên.
Tại Triều Tiên, cứ khoảng 10 người là có 1 chiến binh chính quy. Đó là chưa tính quân dự phòng và các lực lượng bán quân sự. Quân đội chiếm 10% tổng dân số, đó là tỷ lệ cao nhất thế giới. Mặc dù ngân sách nghèo, diện tích nhỏ, dân số ít, nhưng vẫn luôn là một trong những quốc gia có lực lượng quân sự đông nhất thế giới, một trong những ngân sách quốc phòng lớn nhất hành tinh, tỷ lệ ngân sách giành cho quốc phòng cũng cao nhất thế giới.
Các nước khác chỉ tập trung lo cho 3 quân chủng là Hải - Lục - Không quân, thì Triều Tiên ngoài 3 quân chủng đó họ còn xem trọng lực lượng An ninh ngang bằng với 3 quân chủng kia. Đó là chưa kể các lực lượng cảnh sát, cảnh sát chìm, tình báo, đặc tình, cộng tác viên của chính phủ v.v. Giữ vững tuyệt đối an ninh trong quân đội, trong hệ thống chính trị và ngoài xã hội. Cứ cách 10 người là có 4 đảng viên Đảng Lao Động Triều Tiên. Triều Tiên không dưới 40% dân số là đảng viên cộng sản, tỷ lệ cũng cao nhất trong các nước XHCN từ xưa đến nay. Hầu như mỗi nhà, mỗi gia đình là có ít nhất 1 đảng viên. Đâu đâu cũng có chi bộ của Đảng Lao động, kể cả trong chùa chiền hay nhà thờ.
Triều Tiên có nền công nghiệp quốc phòng khá tốt, vũ khí thuộc loại tốt. Công nghệ tên lửa, đạn đạo rất cao. Tên lửa là vũ khí chiến lược của Triều Tiên nên họ rất chú trọng và đầu tư rất lớn vào đây. Tên lửa tầm ngắn của họ dành cho Hàn Quốc và Nhật Bản, theo các nhà quân sự phương Tây tính toán thì chỉ cần khoảng 30 giây là đến được Seoul, và chỉ cần khoảng 2, 3 phút là đến được Tokyo, họ có rất nhiều pháo đài đặt khắp nơi trên các vùng núi cao ở Triều Tiên. Những hệ thống tên lửa phòng ngự mà Hàn, Nhật tự chế hoặc được Mỹ viện trợ / bán cho đều không chắc có thể bắn chặn hóa giải được những tên lửa từ Triều Tiên, cùng lắm thì cả 3 "đồng quy ư tận", có thể kéo theo cả vài trăm căn nhà ở Hawaii và Alaska của Mỹ đi chung.
Tên lửa tầm xa của Triều Tiên thì để dành cho Mỹ, nhắm vào tiểu bang Alaska và Hawaii mà Triều Tiên cho rằng họ có thể vươn tới. Tuy khó thể biến Hawaii và Alaska thành "gạch vụn" như Seoul và Tokyo nhưng cũng sẽ gây thiệt hại nặng nề cho Mỹ, gây tổn thất nặng cho kinh tế Mỹ, và như một cái bạt tai tóe lửa vào mặt mũi, gây tổn thương danh dự, tự ái của đại cường quốc Hoa Kỳ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì đó sẽ là lần đầu tiên trong suốt 200 năm lập quốc nước Mỹ bị tấn công vào bên trong nội địa của mình, điều mà cả Đức Quốc Xã, phát xít Ý, quân phiệt Nhật, Hồng quân Liên Xô còn chưa dám. Quân đội Nhật hung hăng và thiện chiến như vậy mà cũng chỉ đánh vào Trân Châu Cảng chứ chưa dám bén mảng đến lục địa.
Triều Tiên đã xây dựng rất nhiều khu sinh hoạt dưới lòng đất, sẵn sàng cho một cuộc đối đầu trực diện, toàn diện, và lâu dài với bất kỳ thế lực nào, đặc biệt là với không lực Hàn hoặc Mỹ. CIA Mỹ cũng không có đường thể hiện tài năng của mình ở quốc gia khép kín này như họ đã làm được ở các nước khác. Một nhà khoa học quân sự Mỹ, giáo sư ở trường võ bị nổi tiếng West Point cho rằng "Triều Tiên là quốc gia duy nhất trên thế giới ngày nay có khả năng đối đầu toàn diện trong một cuộc chiến tranh toàn diện, tổng lực với chúng tôi". Triều Tiên sẽ không dùng chiến tranh du kích, mà họ sẽ dùng trận địa chiến chọi thẳng theo học thuyết quân sự Stalin.
Liên quân mà tiến vào Triều Tiên thì sẽ sa lầy rất sâu. Và cho dù có chiếm được Bình Nhưỡng và các thành thị, thì họ cũng sẽ không bao giờ bình định được Triều Tiên. Nguy hiểm nhất là đâu đâu cũng có đảng viên Đảng Lao động tổ chức chiến đấu. Triều Tiên còn một hậu phương lớn ở Trung Quốc, mà cụ thể là vùng Mãn Châu trù phú, phát triển, có tài nguyên tốt, có cơ sở tốt, là nơi lý tưởng để thành lập cơ sở chiến đấu lâu dài. Và có thể tin rằng Trung Quốc sẽ không ngồi yên, trơ mắt ếch nhìn quyền lực Mỹ, Hàn, Nhật, phương Tây tiến đến sát biên giới họ, nằm ngay bên hông họ, thành cái gai trong mắt họ.
Trung Quốc và Nga cũng như các nước đang chống Mỹ như Iran, Syria, Palestine, Cuba, Venezuela v.v. và cả cái khối châu Mỹ Latinh, trong đó có các nước giàu mạnh như Argentina, Brazil có thể sẽ đứng về phía Triều Tiên. Trung Quốc chắc chắn sẽ viện trợ. Nga sẽ không tham chiến như thời Liên Xô, nhưng vẫn sẽ ủng hộ Triều Tiên nếu nước này bị tấn công.
Nhiều người cho rằng nếu Mỹ huy động các đồng minh bu vào vây đánh hội đồng Triều Tiên như đã làm với Afghanistan và Iraq thì sẽ dứt điểm được chính quyền Bình Nhưỡng. Tuy nhiên khách quan mà nói thì sẽ khó mà bình định được hay ít nhất làm yên ổn tình hình được như họ đã tạm thành công ở Iraq hay Afghanistan khi họ thành công tiêu diệt truy đuổi Taliban và treo cổ tổng thống Iraq Saddam Hussein. Tại Iraq có cả chục phe chống báng lẫn nhau, chống vì quyền lực, vì niềm tin tín ngưỡng, vì lợi ích tôn giáo... Afghanistan thì có 2 phe là Taliban và Al-Qaeda, mà 2 lực lượng này ngoài việc chống Mỹ ra thì họ còn chống lẫn nhau, bắn giết nhau, cho các sát thủ ám toán thủ lĩnh của nhau. Còn ở Triều Tiên thì chỉ có 1 lực lượng duy nhất, thống nhất và đoàn kết dưới niềm tin về "ánh sáng cách mạng Kim Nhật Thành" và "Chủ thể". Khác với hiện tình "quần long vô thủ", "rắn không đầu" ở Iraq và Afghanistan.
Những quan điểm chính thức của CHDCND Triều Tiên
Theo một số phim phóng sự của Triều Tiên, Trung Quốc, và phương Tây trên Internet, Youtube, khu vực "North Korea" trong diễn đàn cánh tả Soviet-Empire, và mày mò Google Translation các trang web chính thức của chính phủ CHDCND Triều Tiên thì tôi thấy quan điểm chính trị của Triều Tiên rất thú vị. Họ tuyên truyền nhiều vấn đề chỉ dựa vào sự chủ quan duy ý chí mà không dựa trên sự thật và thực tế lịch sử khách quan, và không phù hợp, tương đồng với những thông tin quốc tế, do đó họ phải bưng bít các thông tin bên ngoài, kể cả từ Trung Quốc, Nga, Việt Nam và các nước thân thiện với họ, bao gồm cả những nước cùng ý thức hệ vô sản.
Họ sửa đổi tiểu sử của Kim Nhật Thành và giấu biệt lý lịch từng phục vụ trong Hồng quân Liên Xô của ông. Họ giấu nhẹm yếu tố lãnh đạo của Mao Trạch Đông đối với hai trong những tiền thân của quân đội Triều Tiên là Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc và Quân Tình nguyện Triều Tiên, cũng như việc một số sĩ quan, chiến binh tiền bối của quân đội này từng phục vụ trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hồng quân Nga. Trong khi những hồ sơ của Trung Quốc và Liên bang Nga vẫn ghi nhận những thông tin này.
Hệ thống tuyên truyền của Bắc Triều Tiên cho rằng họ đã chiến thắng trong chiến tranh Triều Tiên. Điều này rất buồn cười vì họ đánh sang Hàn Quốc nhưng bị thống tướng MacArthur đánh bại, bị đập không còn manh giáp, bỏ chạy tán loạn và toàn quân tan rã, chính phủ phải lưu vong sang Trung Quốc và phải cầu viện Trung Hoa đánh giúp. Họ không thống nhất được lãnh thổ, trái lại còn mất luôn một số lãnh thổ gần vĩ tuyến 38 trước năm 1950 vốn thuộc về họ.
Nếu họ cho rằng họ "thắng" vì đã đánh quân địch ra khỏi lãnh thổ CHDCND Triều Tiên thì họ cũng lầm, đó là đại quân Trung Hoa do nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy đánh. Lúc đó quân đội Triều Tiên về cơ bản đã tan hàng rã ngũ. Cả chóp bu lãnh đạo Đảng Lao động Triều Tiên lúc ấy phải trốn tránh trong vùng Đông Bắc Trung Hoa. Hòa ước Bàn Môn Điếm theo cách nói của Triều Tiên thì đó là một nơi mà Liên Hiệp Quốc - Mỹ - Hàn đã "ký kết đầu hàng", trong khi ai cũng biết đó là một hiệp nghị đình chiến tạm thời.
Họ thường tuyên truyền một chiều, phiến diện, không đầy đủ về những tiêu cực trong xã hội Hàn Quốc. Theo họ thì đó là một xã hội đầy rẫy những sự bất công và tệ nạn xã hội, nạn thất nghiệp, tham nhũng, đình công, biểu tình xảy ra khắp nơi, khoảng cách giàu nghèo chênh lệch rất xa và ngày càng chênh lệch. Tội phạm hình sự, buôn lậu, ma túy hoành hành. Nạn tự tử, nhất là trong giới nghệ sĩ, chính trị và nhân vật nổi tiếng rất cao. Nội bộ lãnh đạo Hàn Quốc rất mất đoàn kết và sợ Mỹ. Xã hội thác loạn, mại dâm, công nghiệp tình dục và bệnh tình dục có nhiều. Thuốc lắc, thuốc cấm lưu hành khắp nơi. Môi sinh bị ô nhiễm nặng nề. Họ tự hào đó là những điều không tồn tại hoặc có rất ít ở Bắc Triều Tiên.
Ngoài ra họ cũng có một số quan điểm đáng suy nghĩ. Họ luôn có một quan điểm nhất quán rằng: Bán đảo Triều Tiên chưa thống nhất được là vì Mỹ. Mỹ phải rút khỏi Hàn Quốc. Sau khi Mỹ rút khỏi Hàn Quốc thì 2 quốc gia sẽ tiến hành hợp nhất trở lại thành 1 quốc gia như trước. Có Mỹ ở đó thì không được, Mỹ là chướng ngại vật to lớn nhất cho mục tiêu thống nhất Triều Tiên và chính sách Ánh Dương.
Họ cho là vì Mỹ mà hai anh em bán đảo Triều Tiên bất hòa, dân tộc Triều Tiên thù ghét nhau. Mỹ không những đã chia rẽ bán đảo Triều Tiên và còn ly gián dân tộc Triều Tiên. Thế nên Mỹ tuyệt đối phải rời khỏi bán đảo Triều Tiên thì sự nghiệp thống nhất quốc gia của hai bên mới có chuyển cơ tốt. Tuy nhiên, họ không làm rõ khái niệm "rời khỏi" là thế nào, rút quân đội hay là ý nói không can dự vào chuyện nội bộ Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên và bán đảo Triều Tiên nữa? Chứ hiện nay Mỹ chỉ còn khoảng 1 vạn rưỡi quân đóng tại Hàn Quốc.
Họ không chống Hàn Quốc, họ bảo "Hàn Quốc là anh em, nhưng Mỹ phải cút ngay". Đối tượng thù địch mà họ nhắm vào chống đối chủ yếu là Mỹ, Nhật, phương Tây, cũng như một số tổng thống và nhà lãnh đạo cụ thể của Hàn Quốc có thái độ thần phục Mỹ quá đáng hoặc hung hăng chống Triều Tiên. Những tổng thống Hàn Quốc bị họ lên án và đả kích nặng nề nhất gồm có Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hy (họ từng cho các đội đặc nhiệm cảm tử đột nhập Nhà Xanh để ám sát Phác Chính Hy), và Lý Minh Bác ngày nay. Tổng thống Hàn Quốc được họ khen ngợi nức nở nhất là Kim Đại Trung và Lô Vũ Huyễn, hai vị tổng thống tiền nhiệm trước thời Lý Minh Bác. Kẻ thù số 1 dĩ nhiên luôn là Mỹ, nhất là gia tộc Bush, tuy nhiên họ lại khen ngợi hết lời tổng thống Clinton. Khi họ bắt giữ 2 nữ nhà báo người Mỹ gốc Hoa, ông Bill Clinton sang Bình Nhưỡng giải quyết và họ đã chấp thuận thả người.
Theo họ thì lính Hàn Quốc là một bọn lính thuộc địa bị Mỹ lừa phỉnh, gạt gẫm, mua chuộc, dụ dỗ, đa số là bọn "ma cô", chống cộng quá khích và rất "vô văn hóa", "vô giáo dục". Họ dẫn chứng bằng cách kể lại quân lính Hàn ở biên giới rất nhiều lần đã xăm mình bậy bạ tục tĩu, xúc phạm đất nước, nhà nước, và lãnh tụ của họ. Giơ ngón giữa hoặc chửi thề bằng các từ lăng mạ tiếng Anh, phô bày các bộ phận sinh dục, chửi bới lăng mạ các người lính Triều Tiên rất thậm tệ và thô tục...
Họ nói rằng Hàn - Mỹ tập trận không phải là để tự vệ mà là để thực tập tấn công vào Triều Tiên. Họ chỉ ra và phân tích chuyên môn những buổi tập, bài tập mà không phải các bài tập trận phòng thủ, mà là các bài tập trận tấn công. Cũng như một số vũ khí sử dụng trong tập trận, vốn không phải là vũ khí phòng thủ mà là vũ khí tấn công (ví dụ xe tăng, xe bọc thép).
Họ cho rằng "họ có sở hữu vũ khí hạt nhân", và phát triển vũ khí hạt nhân là điều cần thiết để bảo vệ đất nước trước âm mưu xâm lược của tất cả các kẻ thù, gồm Mỹ, Nhật, Hàn, và phương Tây.
Họ giải thích rằng sở dĩ trước đây họ rút khỏi cuộc đàm phán 6 bên là vì các nước chỉ biết đến lợi ích ích kỷ của mình, muốn "chơi cha", hiếp đáp, có thái độ kẻ cả, "người lớn", "trịch thượng" và đã không tôn trọng CHDCND Triều Tiên cũng như những lợi ích của CHDCND Triều Tiên. Họ bị bao vây và "đánh hội đồng", 5 chọi 1, và đó là một sự đàm phán không bình đẳng, do đó họ luôn yêu cầu đàm phám song phương mà quyết không đàm phán đa phương. Họ không muốn các nước lớn đàm phán trên lưng họ. Điều này có cơ sở, trong hội nghị quốc tế ở Genève, Thụy Sĩ năm 1954 về vấn đề Đông Dương, Việt Nam, Lào, Campuchia đã bị các đế quốc đàm phán sau lưng mình. Cho nên đến hội nghị ở Paris, Pháp về vấn đề Việt Nam, VN đã rút kinh nghiệm từ hội nghị Genève, kiên quyết đàm phán song phương với Mỹ chứ không chấp nhận đàm phán quốc tế.
Nhìn lại các diễn biến lịch sử trên bán đảo Đông Dương và bán đảo Triều Tiên
Lâu nay một số người cố ý đánh đồng, xuyên tạc hoặc vô tình nhầm lẫn, ngộ nhận bản chất của chiến tranh liên Triều trên bán đảo Triều Tiên và kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam.
Đối với những người nhầm lẫn thì đó là từ sự hời hợt, qua loa trong nhận thức, suy nghĩ, tư duy, đánh giá, do họ chỉ nhìn thoáng qua bề ngoài, bề nổi, thấy hiện tượng có một số điểm giống nhau liền cho rằng bản chất cũng giống nhau. Sự sai lầm này chủ yếu xuất phát từ thói quen đem chuyện Việt Nam so sánh khập khiễng với chuyện bên ngoài, hoặc đem chuyện bên ngoài so sánh khập khiễng với chuyện Việt Nam. Trong khi cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên và trên bán đảo Đông Dương có rất nhiều điểm khác nhau.
Mỗi bên, mỗi nước, mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có những đặc điểm lịch sử, chính trị, con người, và những hoàn cảnh khách quan riêng biệt nên phải được đánh giá riêng biệt thì mới hợp lý. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn một bộ phận trước đây từng là lính ngụy luôn cố ý đánh đồng vàng thau lẫn lộn hai cuộc chiến này. Họ cố ý lờ đi các vấn đề khách quan, chỉ tiếp thu những gì phù hợp với não trạng sẵn có của họ, với định kiến và thành kiến vốn đã ăn sâu của họ, chứ không cần phân tích duy lý mà chỉ muốn trang điểm xác chết bằng cách đeo mặt nạ hình người khác vào cho cái xác đó.
Về bản chất, một kẻ là công cụ thừa hành của Mỹ, một kẻ là đàn em, "đệ tử" chịu thua thiệt và lệ thuộc Mỹ. Khó mà so sánh. Hàn Quốc tồn tại được và phát triển mạnh mẽ cho tới hôm nay là vì họ có tính chính thống - chính danh - chính nghĩa nhất định và không phụ thuộc vào Mỹ tới mức như ngụy quyền Sài Gòn. Ngụy quyền SG không tồn tại được là vì nó chỉ là công cụ của Mỹ, khi Mỹ thua thì nó tất phải diệt vong. Cũng như khi Pháp chạy thì ngụy quyền "Quốc gia Việt Nam" cũng chẳng thể tồn tại.
Nhiều người có thói quen thích tự tưởng tượng chủ quan trong đầu một cách duy ý chí rồi hỏi "nếu" này "nếu" nọ. Lịch sử không có chữ "nếu" bao giờ. Lịch sử phát triển thế nào, có những kết quả ra sao đều có nguyên nhân khách quan và tất yếu của nó, cái "nhân" lâu ngày tích tụ thành cái "quả", có nguyên nhân mới có hậu quả. Lịch sử không bao giờ là ngẫu nhiên, không bao giờ là hên xui may rủi, không bao giờ như ném xí ngầu hay chơi bài mà có xác suất. Kết quả của một cuộc chiến lớn lao luôn phụ thuộc vào nhiều cái nhân tích hợp lại lâu ngày cho ra cái quả đó. Mà chủ yếu là phụ thuộc vào ai có chính nghĩa dân tộc, ai tự vệ, ai xâm lược, ai có chính danh ai không, và quan trọng nhất là ai được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, và vì sao họ được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, nuôi giấu. Việt Nam có chính nghĩa nên Việt Nam thắng. Còn hai phía bán đảo Triều Tiên không ai có chính nghĩa vượt hẳn phía bên kia nên vẫn cứ giằng co cho tới ngày nay.
Trên bán đảo Triều Tiên thì bối cảnh và diễn biến lịch sử khác với Việt Nam. Thời đó Triều Tiên là thuộc địa của Nhật, đến khi Nhật thua thì lực lượng của Kim Nhật Thành lúc đó vẫn chưa là gì cả. Tầm ảnh hưởng của lực lượng Kim Nhật Thành vẫn còn rất hạn chế. Chưa có được lòng dân ở phía Nam bán đảo Triều Tiên. Họ không có cái thế và lực để mà tuyên bố độc lập ngay lúc đó. Và sau khi Liên Xô giải giáp quân Nhật ở phía Bắc, Mỹ giải giáp quân Nhật ở phía Nam thì lúc đó Triều Tiên vẫn chưa có độc lập. Triều Tiên vẫn chưa là 1 nước. Chưa có nước Triều Tiên trên bản đồ thế giới. Họ đã bị chia ra ngay từ đầu. Còn Việt Nam thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thành lập Nhà nước trước khi quân Đồng minh tiến vào. Quân Tàu Tưởng và liên quân Anh - Pháp kéo vào VN là đi vào một quốc gia đã có chủ. Quân Liên Xô và quân Mỹ kéo vào Triều Tiên là đi vào một vùng đất chưa có chủ.
Việt Nam thành lập quốc gia, nhà nước, bầu cử Quốc hội, hoàn thành Hiến pháp và khẳng định chủ quyền độc lập và thống nhất trên khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam trong khi "Quốc gia Việt Nam" của Pháp và "Việt Nam Cộng hòa" của Mỹ không hề tồn tại, và mãi về sau mới được Pháp - Mỹ dựng lên. Trong khi đó, Lý Thừa Vãn ở Nam Triều Tiên đã tuyên bố lập quốc trước Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên.
Việt Nam không bao giờ công nhận các ngụy quyền và nói chuyện với họ (VN muốn nói chuyện, muốn giải quyết vấn đề gì, muốn đề xuất việc gì thì tìm Pháp, Mỹ mà nói), thì trong khi đó, trên bán đảo Triều Tiên vào thập niên 1970 quan hệ hai nước dần được cải thiện, và hai bên bán đảo Triều Tiên cùng công nhận sự hợp pháp của nhau.
Năm 1976, Bình Nhưỡng đã chấp nhận lời đề nghị của Hán Thành thành lập Ủy ban Hỗn hợp Nam Bắc để giải quyết vấn đề tái hợp hai nước, thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hòa khí và hữu nghị. Đại biểu, lãnh đạo, quan chức của hai quốc gia gặp gỡ nhiều lần tại thủ đô của hai bên nhưng không mang lại kết quả gì đáng nói.
Năm 1991, cả hai nước chính thức công nhận lẫn nhau để chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc cùng một lúc. Mặc dù năm 1948 Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết công nhận Đại Hàn Dân Quốc ngay sau khi Lý Thừa Vãn tuyên bố lập quốc, nhưng ngày 17 tháng 9 năm 1991 Hàn Quốc mới chính thức được kết nạp trở thành thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, cùng ngày với CHDCND Triều Tiên.
Chiến tranh Triều Tiên có 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là cuộc chiến giữa quân đội của viên tướng trẻ Kim Nhật Thành tràn ngập lãnh thổ từ phía Bắc vào phía Nam, dồn quân Lý Thừa Vãn vào vùng Phú Sơn (Pusan) cố thủ. Quân đội ngoại bang không có nhiều vai trò trong giai đoạn 1 này.
Giai đoạn 2 là quân Trung Quốc chống nhau với các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu. Lúc này các chóp bu lãnh đạo CHDCND Triều Tiên đều lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc, không ở trong nước, còn quân đội Triều Tiên về cơ bản đã tan rã. Quân đội Hàn Quốc trong giai đoạn 1 cũng đã không còn bao nhiêu thực lực, do đó không có vai trò gì nổi bật trong giai đoạn 2 này. Như vậy giai đoạn 1 là quân trong nhà chống nhau. Giai đoạn 2 là quân bên ngoài đánh nhau trên bán đảo Triều Tiên.
Trường hợp ở Việt Nam thì khác, cuộc chiến ngay từ đầu đã diễn ra chủ yếu bằng lực lượng tại chỗ ở miền Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, kháng chiến chống Mỹ để giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà. Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc không dùng đại quân tấn công tổng lực vào miền Nam như trên bán đảo Triều Tiên. Và thực tế chiến cuộc cũng cho thấy là miền Nam đánh Mỹ-ngụy trực tiếp, miền Bắc chi viện và bổ sung. Lãnh đạo, chỉ huy thì có cả người Nam và người Bắc.
Trong các phim tài liệu, chương trình kỷ niệm về thương binh, liệt sĩ, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ đã cho thấy rằng đa số họ là những người quê quán ở miền Nam, nói tiếng Nam rặt. Ngay cả lực lượng bổ sung từ miền Bắc cũng thường là những người miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ chỉ là về lại quê hương miền Nam hoạt động và chiến đấu chống ngoại xâm. Do đó cuộc chiến này do lực lượng tại chỗ ở miền Nam chiến đấu trực tiếp, do nhiều người miền Nam chỉ huy, miền Nam trực tiếp chống Mỹ và tổn thất nhiều nhất.
Thống kê đã cho thấy số phụ nữ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (theo tiêu chuẩn có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con trai trong gia đình) ở miền Nam nhiều gần gấp đôi ở miền Bắc. Miền Nam có 29.220 người, miền Bắc có 15.033 người, cho thấy quân đội, đảng viên, cán bộ miền Nam đã vị quốc vong thân nhiều hơn miền Bắc.
Nhiều cán bộ, đảng viên, lãnh đạo, tướng lĩnh, quân nhân làm việc, công tác ở ngoài Bắc cũng từ miền Nam. Nhiều trường miền Nam đã được xây dựng ở Hải Phòng, Hà Nội và nhiều thành phố để nuôi dạy các “hạt giống đỏ” thiếu nhi miền Nam ở hậu phương lớn, để cha mẹ của các bé yên tâm chiến đấu ngoài tiền tuyến lớn.
Trong những cuộc biểu tình chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, giới trẻ, thanh niên, sinh viên Sài Gòn và cả miền Nam giương cao những băng rôn, biểu ngữ ủng hộ, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, giương cao quốc kỳ, cờ Mặt trận, cờ Đảng (cờ búa liềm), giương cao hình Bác Hồ, hình đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong khi đó ngày nay những cuộc biểu tình phản đối Mỹ và Lý Minh Bác của người dân Hàn Quốc chúng ta thấy họ phản đối Mỹ (nhẹ nhàng hơn) và hoàn toàn không có một biểu ngữ, khẩu hiệu nào tỏ thái độ ủng hộ Kim Chính Nhật, chính thể họ Kim, Đảng Lao động Triều Tiên hay CHDCND Triều Tiên, cũng không thấy ai giơ cao quốc kỳ CHDCND Triều Tiên hay cờ Đảng Lao động Triều Tiên, cũng không ai giơ lên hình Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật như ở Bắc Triều Tiên.
Đó là những sự khác biệt thấy rõ về lòng dân ở Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên. Tại Hàn Quốc, một bộ phận tuy ghét Mỹ, ghét chính phủ Hàn Quốc, nhưng họ không theo Bắc Triều Tiên. Họ không đào hầm nuôi giấu các điệp viên Triều Tiên, nếu gặp có khi họ còn gọi điện thoại báo cảnh sát. Họ cũng không có gởi con em, con cháu đi theo CHDCND Triều Tiên. Tại miền Nam VN thì người dân miền Nam theo Đảng, theo Bác Hồ, bà mẹ miền Nam gởi con ra Bắc đã dặn: "Con ra thưa với cụ Hồ, Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao". Người dân Nam VN đào hầm nuôi giấu cách mạng và cho con em, con cháu mình ra bưng biền, ra chiến khu, ra những vùng giải phóng theo kháng chiến.
Có thể thấy, cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên mang tính chất nội chiến trong giai đoạn đầu, và mang tính chất quốc tế, hoàn toàn là quân đội từ bên ngoài ngoài đánh với nhau trong giai đoạn sau. Còn cuộc chiến ở Việt Nam là cuộc chiến chống xâm lược nằm trong một bối cảnh mâu thuẫn quốc tế giữa hai thế lực hùng mạnh.
Bản chất của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam và trên bán đảo Triều Tiên như đã phân tích ở trên, là rất khác nhau. Bản chất nó khác nhau vì bối cảnh lịch sử và diễn biến lịch sử trên đất Việt Nam và bán đảo Triều Tiên là khác nhau, và còn nhiều nhân tố, yếu tố khác nhau. Bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ lại về góc độ Quốc hội và luật pháp:
1. Năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu một mốc son lịch sử khi Việt Nam giành được độc lập từ tay phát xít Nhật, với quốc hiệu chính thức là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó nước Việt Nam DCCH là 1 nước thống nhất từ Bắc chí Nam. Các văn bản có giá trị pháp lý sau đó như: Hiến pháp 1946, tuyên cáo 12 khu hành chính của nước VNDCCH cuối năm 1946 đều khẳng định việc này, trong lúc trên đất Việt không hề tồn tại bất kỳ một quốc gia, nhà nước, chính thể, chính quyền, ngụy quyền nào khác.
Ngay cả Hiệp định Genève về Đông Dương cũng chỉ công nhận làn ranh giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử, tạm chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho 2 bên tập kết chứ không nói gì đến vấn đề thay đổi lãnh thổ. Theo Hiệp nghị Genève về Đông Dương, vĩ tuyến 17 không phải là làn ranh có ý nghĩa về lãnh thổ, chính trị, hay địa lý. Hiệp nghị này không có ý nghĩa chia đôi đất nước về lãnh thổ và chính trị. Như vậy rõ ràng miền Nam Việt Nam vẫn thuộc lãnh thổ của VNDCCH được nhân dân ở cả 2 miền công nhận và ủng hộ. Hiến pháp 1959 cũng nhắc lại; Nam Bộ là thành đồng của Tổ quốc, là lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam, là bộ phận máu thịt của Việt Nam.
2. Pháp vào xâm lược lần nữa. Chín năm trường kỳ kháng chiến đã kết thúc sau trận Điện Biên Phủ chấn động khắp thế giới. Câu "Việt Nam - Hồ Chí Minh - Giáp, Giáp, Giáp" trở thành câu nói quen thuộc trong dư luận thời đó.
3. Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết. Tạm thời chia VN thành hai vùng tập kết quân sự, lấy vĩ tuyến 17 làm một làn ranh giới tuyến quân sự tạm thời trong vòng 2 năm, từ 1954 đến 1956, để chờ đợi tổng tuyển cử toàn quốc năm 1956, chọn ra lãnh đạo cho nhiệm kỳ mới, đồng thời chính thức thống nhất Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Minh tập kết ra Bắc, trên vĩ tuyến 17. Quân đội Pháp-ngụy tập kết vào miền Nam, dưới vĩ tuyến 17.
4. Thực dân Pháp ở miền Nam lật lọng. Dùng những xảo thuật chính trị, thủ đoạn chính trị củng cố ngụy quyền bù nhìn Bảo Đại có cái tên mỹ miều là “Quốc gia Việt Nam” mà họ thành lập từ năm 1949, từ đó bọn tay sai Pháp tự nhận mình là “người Quốc gia”, “thành phần Quốc gia”, “đảng phái Quốc gia”, “chính phủ Quốc gia”, “quân đội Quốc gia”, “lính Quốc gia”, “chiến sĩ Quốc gia” v.v. Người Pháp mưu toan dàn dựng một "miền Nam độc lập", “tự trị”, mưu đồ chia cắt lâu dài nước Việt Nam. Sau năm 1948, con bài "Nam Kỳ tự trị", “Nam Kỳ độc lập”, “Nam Kỳ Cộng hòa quốc” do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu không còn giá trị, Pháp phế bỏ ngụy quyền bù nhìn này và nặn ra "chính phủ Quốc gia" với ông vua bù nhìn Bảo Đại làm "quốc trưởng", Nguyễn Văn Xuân làm "thủ tướng", và tiếp tục củng cố và nuôi dưỡng ngụy quyền này sau năm 1954.
5. Quyền lực Mỹ dần lấn lướt, lấn át Pháp tại miền Nam. Qua nhiều cuộc đấu đá lẫn nhau tranh giành ảnh hưởng, Mỹ đã thành công hất cẳng Pháp ra khỏi chính trường miền Nam Việt Nam. Mỹ đem Ngô Đình Diệm từ Mỹ về và đưa lên làm “tổng thống”. Mỹ-Diệm cưỡng từ đoạt lý bảo rằng Mỹ và “Quốc gia Việt Nam” (Trần Văn Hữu làm đại diện thay Bảo Đại đi dự hội nghị Genève) không có ký vào hiệp định cho nên không có trách nhiệm thi hành tổng tuyển cử. Đây là sự ngụy biện rõ ràng vì đây là hiệp định thực thi trên một lãnh thổ, cho dù có thay đổi chính phủ, chính thể thì lãnh đạo mới vẫn phải thực thi trách nhiệm của hiệp định đó lên trên lãnh thổ đã được xác định trên giấy trắng mực đen. Và thế là từ đây, Mỹ đã thành công chia cắt lâu dài nước Việt Nam DCCH, chiếm mất nửa nước của VNDCCH, và cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam bắt đầu từ đó và kéo dài đến năm 1975.
Sau khi điểm lại các sự kiện lịch sử cùng với các mốc lịch sử, thì có thể thấy nước Việt Nam DCCH – CHXHCN Việt Nam đáng lẽ đã là 1 nước độc lập - thống nhất từ năm 1945. Nhưng các thế lực ngoại bang, nhất là Pháp và Mỹ đã phá hoại sự thống nhất, độc lập của nước VNDCCH. Họ vào miền Nam - nơi duy trì các sức mạnh chính trị, quân sự, kinh tế của họ - liên tục tạo ra hết ngụy quyền này đến ngụy quyền khác. Từ ngụy quyền Trần Trọng Kim của Nhật đến ngụy quyền Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Thinh, ngụy quyền / ngụy triều Nguyễn Văn Xuân, Bảo Đại của Pháp, rồi đến ngụy quyền Ngô Đình Diệm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu của Mỹ.
Việt Nam năm 1945 đã có độc lập và chính danh trên toàn quốc, và đáng lẽ đã thống nhất, hòa bình vào năm 1956 (tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc). Do đó, kể từ năm 1945 trở đi, và nhất là từ năm 1946 khi Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam được bầu, Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam ra đời, thì bất cứ kẻ ngoại bang nào tiến vào lãnh thổ nước ta nặn ra các ngụy quyền, xây dựng quân đội bản xứ để phục vụ cho các chính sách và chiến lược của họ thì rõ ràng là sai trái và đó là hành động vi phạm chủ quyền, xâm lăng, tiến hành chiến tranh xâm lược.
Sau Cách mạng tháng Tám, Việt Nam giành lại được độc lập từ tay Nhật - Pháp sau gần 100 năm Pháp thuộc, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước bầu ra thông qua cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội trong toàn quốc diễn ra vào tháng 1, năm 1946. Kỳ bầu cử này cũng bầu ra Quốc hội khoá 1 hoạt động cho đến nay.
Như vậy, chính quyền này là chính quyền của toàn dân, do nhân dân trong cả nước, từ Bắc chí Nam, khắp 3 miền: Miền Bắc, miền Trung, và miền Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu ra một cách hợp pháp. Chính quyền này tồn tại liên tục và kế tục một cách hợp pháp liên tiếp, nối tiếp nhau từ đó đến nay. Do đó, bất kỳ chính quyền nào khác do ngoại bang thành lập sau này, không do người dân toàn quốc bầu ra, đều có thể được coi là một ngụy quyền bất hợp pháp, không hợp lệ.
Người viết muốn nhấn mạnh đến hai vấn đề, thời điểm:
- Cuộc Tổng Tuyển Cử toàn quốc bầu cử ra Quốc Hội khoá 1 của chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập diễn ra trong cả nước, về địa lý bao gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam, với hơn 90% số cử tri đăng ký tham gia. Quốc hội khoá 1 đã bầu ra một chính phủ nắm quyền lãnh đạo đất nước trong hoàn cảnh và thời điểm ở Việt Nam không tồn tại bất kỳ chính quyền nào được bầu ra theo thể thức như vậy. Quốc hội khóa này, được bầu một cách hợp pháp và đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, đã hoạt động cho đến ngày nay.
- Chỉ rất lâu sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên Ngôn Độc Lập và tuyên bố nước ta hoàn toàn độc lập, khẳng định chủ quyền trên khắp Việt Nam, bầu cử Quốc hội xong, chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thành lập và đang hoạt động hợp hiến, hợp pháp từ lâu, thì một loạt chính phủ bù nhìn khác ở miền Nam Việt Nam được các thế lực ngoại bang thành lập; Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Xuân, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu v.v. Như vậy, bất cứ can thiệp quân sự nào từ nước ngoài kéo đại quân vào lãnh thổ của một nước Việt Nam đã độc lập, đã thống nhất thì đó là xâm lược. Hành động thành lập liên tục các ngụy quyền ở Nam Bộ của VNDCCH cũng là một hành động xâm lược.
Xin lưu ý ở đây là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay trên nguyên tắc theo luật pháp là một quốc gia độc lập, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ từ 1945, bao gồm miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Hiệp định Genève về Đông Dương chỉ có ý nghĩa phân định ranh giới quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử toàn quốc chứ không phải là “hiệp định chia đôi đất nước” như quân xâm lăng tuyên truyền. Lãnh thổ VNDCCH bao gồm Bắc, Trung, Nam, là quốc gia thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ từ năm 1945 chứ không phải “VNDCCH chỉ có ở miền Bắc" như Pháp-Mỹ-ngụy tuyên truyền.
Nếu ở bên ta, Mỹ phủ nhận tổng tuyển cử theo hiệp định Genève về Đông Dương vì biết chắc Hồ Chí Minh sẽ thắng; thì ở Triều Tiên, vào tháng 11 năm 1947, Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành tổng tuyển cử tại Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của một ủy ban của LHQ. Mỹ yêu cầu tổng tuyển cử vì biết chắc Lý Thừa Vãn sẽ thắng do Nam Triều Tiên dân số gần gấp đôi Bắc Triều Tiên. Lần này Liên Xô và chính Kim Nhật Thành từ chối. Lý Thừa Vãn trước đó đã kích động lòng yêu nước của Kim Cửu và lợi dụng ông làm "thuyết khách" đi Bình Nhưỡng một chuyến để thuyết phục Kim Nhật Thành chịu tổng tuyển cử, Kim Nhật Thành từ chối và hai người tranh cãi to tiếng và Kim Cửu phải chán nản ra về.
Hàn Quốc cũng có nền công nghiệp quốc phòng riêng và khá mạnh, theo bài phân tích “Tiềm Lực Quân Sự Hàn Quốc” trên báo An ninh Thế giới thì Hàn Quốc có khoảng 80% vũ khí là tự chế. Còn ngụy quyền Sài Gòn năm xưa Mỹ phát đến đâu là đánh đến đó, ngay cả công nghiệp dân sự còn không có thì nói gì đến công nghiệp quốc phòng. Cái gọi là "VNCH" này do Mỹ nuôi, quân đội và nhân sự do Mỹ huấn luyện và trả lương, bao trọn gói, kinh tế hoàn toàn phụ thuộc Mỹ. Thị trường do tư bản Mỹ nắm gọn, thao túng. Trong thời Mỹ trước 1975, trong những vùng tạm chiếm hầu như không có hàng nội, hầu hết đều là hàng ngoại, đặc biệt là hàng Mỹ.
Trong khi ở miền Bắc và những vùng giải phóng ở miền Nam thời đó có rất nhiều xưởng quân giới chế tạo các loại vũ khí, trong đó có nhiều vũ khí đặc thù Việt Nam, phù hợp với người dùng VN, môi trường VN, không gian VN như súng trường Phan Đình Phùng, súng Ngựa trời do các xưởng quân giới ở Bến Tre chế tạo, Tiểu liên Sten do xướng quân giới Nam Định chế tạo năm 1946, lựu đạn, mìn, thủy lôi, súng ngắn, bom ba càng, súng cối 60mm, Đạn phóng bom, xưởng quân giới AL1 chế tạo năm 1948, Súng phóng lựu làm từ thân súng trường Mas và súng cối 63mm, quân giới Nam Bộ chế tạo, Súng phóng lựu, bom bay, đạn cối 187mm, quân giới Việt Bắc chế tạo, Ống đạp lôi v.v. và nhiều sửa chữa, nâng cấp, cải tiến khác của Quân giới Việt Nam. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa là một nhân tài hiếm có và đã đóng góp rất nhiều cho ngành quân giới Việt Nam.
Năm 1975, Mỹ chỉ cần cắt giảm viện trợ quân sự (viện trợ kinh tế thì không thay đổi bao nhiêu) xuống còn 700 triệu USD thì ngụy đã không sống nổi và trút hơi thở cuối cùng ngay vào năm đó. Ngụy không thể sống, không thể thở, không thể tồn tại nổi khi được nuôi dưỡng không đầy đủ. Ngược lại, bây giờ nếu Mỹ buông Hàn Quốc ra thì tin chắc Hàn Quốc vẫn sống được, dù có thể sẽ không mạnh bằng khi có Washington chống lưng.
Hàn Quốc có sự độc lập chủ quyền và tự chủ nhất định. Quân đội họ tự thân chiến đấu. Trong khi lính ngụy ở Việt Nam do quan thầy Pháp / Mỹ huấn luyện và có mặt trong từng đơn vị tiểu đoàn để điều khiển và kiểm soát chặt chẽ. Quân đội ngụy ở VN chủ yếu được Pháp, Mỹ coi là những tấm bia thịt đỡ đạn để quân đội chính quốc đỡ thương vong (xem sách lược Da vàng hóa chiến tranh thời Pháp, chiến dịch Hạ Lào, sách lược Phi Mỹ hóa - Việt Nam hóa chiến tranh thời Mỹ).
Còn một khác biệt khá rõ nữa là ngụy quyền ở VN không là cái gì quan trọng cả. Có nó hay không có nó thì hai bên Việt - Mỹ vẫn có chiến tranh. Không có nó hay có nó đều không ảnh hưởng nhiều tới cục diện và không thay đổi cục diện. Ngụy Sài Gòn không có vai trò gì đáng kể trong chiến tranh ngoại trừ vai trò làm người chỉ biết nói yes (yes-man), làm cái máy ký tên vào tất cả những văn kiện gì mà Mỹ đưa cho (dám không ký thì “ông” cho ăn đạn, gương Diệm sờ sờ), và với vai trò của những tay chân, sai vặt chỉ đâu làm đó, Thiên Lôi sai đâu đánh đó.
Nếu cần thì Mỹ sẵn sàng vắt chanh bỏ vỏ, giết chết và kéo kẻ này xuống, dựng kẻ kia lên, giật dây đảo chính để thay đổi tay sai. Trong chiến tranh chống Việt Nam, có những lúc Mỹ thay tay sai như thay áo, liên tục bật đèn xanh đảo chính, giết người này, phế người kia, lưu đày người nọ, lập người khác theo ý mình, phế Bảo Đại, giết Diệm, đày Khánh, dựng Thiệu, răn Kỳ. Hoàn toàn lũng đoạn và thao túng, kiểm soát và điều khiển chính trường ở Nam Việt Nam, nắm chắc trong tay miền Nam của Việt Nam, giữ miền Nam của VN trong quỹ đạo Hoa Kỳ. Giữ đàn chim của mình bay đúng hướng.
Các tướng tá, sĩ quan Hàn Quốc cũng hiếm có người từng phục vụ cho đế quốc Nhật trong lúc người Nhật đô hộ bán đảo Triều Tiên. Đa số họ cũng là những người chống Nhật. Trong khi đó tướng tá, sĩ quan ngụy Sài Gòn đa phần đã từng phục vụ cho đế quốc Pháp trong thời Pháp thuộc. Có Pháp tịch, nói tiếng Pháp, đeo huân chương Pháp, học ở Pháp, được Pháp phong chức, trả lương, đào tạo, nuôi dưỡng. Nhiều gia đình có “thành tích” làm việc cho thực dân Pháp nhiều đời, đàn áp nghĩa quân khốc liệt. Có cả những tên nói tiếng Tây thạo hơn tiếng ta, nói tiếng mẹ đẻ bập bõm (như tướng Nguyễn Văn Hinh). Có cả những tên chỉ huy lính ngụy trong trận Điện Biên Phủ bên cạnh người Pháp, phất cờ Tam tài, hát quốc ca Pháp (như tướng Phạm Văn Phú). Quân đội “Việt Nam Cộng hòa” được xây dựng và phát triển từ quân đội “Quốc gia Việt Nam” thời Pháp, từ lực lượng ngụy quân nòng cốt và những tay sai đắc lực của thực dân Pháp.
Gs. Nguyễn Mạnh Quang, là giáo sư khoa Sử - địa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, hiện nay là giảng viên khoa Lịch sử Hoa Kỳ tại Sở Học Chánh Tacoma, bang Washington, Hoa Kỳ, đã nhìn nhận:
"Thật tình mà nói, giới lãnh đạo quân sự và chính trị của hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng hòa là một lũ tay sai của Pháp đào tạo để phục vụ cho thực dân Pháp cho nên trong máu họ mang tính tay sai lúc nào cũng nhìn trước ngó sau ông chủ có vừa lòng hay phật ý cho nên khi nắm quyền lãnh đạo ở Sàigòn nhưng mắt cứ để ý ở Washington, Paris, Rome. Trong số này cũng có nhưng rất hiếm người có lòng với quốc gia dân tộc thì lại bị tập đoàn Ngô Đình Diệm loại bỏ bằng nhiều hình thức. Trong quân đội và hành chánh có nhiều người trẻ được đào tạo sau khi thực dân Pháp cáo chung, họ có tài có tâm huyết song không phải là cấp chỉ đạo mà là những kẻ thừa hành thì làm được gì vì quyền cao chức trọng nằm trong tay đám tay sai của thực dân Pháp đào tạo quyết định."
Sau chiến tranh Mỹ - Việt, nhiều cựu binh Hàn Quốc đã trở lại Việt Nam giúp đỡ, hợp tác, đầu tư, tỏ thành ý hối hận đã đánh thuê cho Mỹ ở VN và gây ra nhiều tội ác, thảm sát, và đã có nhiều hành động thiết thực để chuộc tội. Một số cựu sĩ quan Hàn Quốc viết sách hồi ức, hồi ký bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục đối với tinh thần yêu nước và ý chí quyết tử của người Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, cũng như lòng quả cảm, không sợ chết, không sợ gian nguy đói khổ, và năng lực chiến đấu tuyệt vời của những chiến binh Việt Cộng, và lên án tội ác của Mỹ và chính quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam.
Do đó, bản chất của chiến tranh Việt - Mỹ và chiến tranh liên Triều là rất khác nhau. Bối cảnh lịch sử và các diễn biến lịch sử trên đất bán đảo Đông Dương và trên bán đảo Triều Tiên cũng khác nhau. Vì vậy thật phi lý khi đánh đồng 2 cuộc chiến tranh này với nhau, thể hiện một sự mơ hồ không nắm vững lịch sử.
oOo
Bán đảo Triều Tiên vẫn còn bị chia cắt, dân tộc Cao Ly vẫn chưa có được hoàn toàn độc lập, thống nhất, và trên danh nghĩa thì chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn, quốc gia này vẫn chưa có hòa bình thật sự vì cho đến nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, trên phương diện pháp lý và nguyên tắc kỹ thuật thì bán đảo Triều Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù Trung Quốc - Triều Tiên và Liên Hiệp Quốc đã ký kết Hiệp ước Đình chiến tạm thời vào năm 1953.
Luật Hàn Quốc hiện vẫn không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ phía Triều Tiên. Dưới thời tổng thống Lô Vũ Huyễn, đã có một phong trào rộng lớn của một bộ phận người Hàn Quốc đòi dỡ bỏ luật này, mặc dù có thái độ thân Triều, nhưng dưới áp lực của Mỹ, những phong trào này đã bị tổng thống ra lệnh đàn áp, dập tắt, và hiện tại nó vẫn không được thực thi. Trong khi đó, chính quyền Hàn - Mỹ vẫn vỗ ngực khẳng định rằng công dân Hàn Quốc có đầy đủ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin.
Tại Hoa Kỳ, cuộc chiến Triều Tiên đã không nhận được sự chú ý của nhiều người như Thế chiến 2 hoặc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vì vậy nó đôi khi được gọi là “Cuộc chiến bị lãng quên” (The Forgotten War). Nhưng làm sao lãng quên được khi cuộc chiến thực chất vẫn đang diễn ra trên bán đảo Triều Tiên, một cuộc chiến tiềm tàng, âm ỉ không tiếng súng. Nhưng tiếng súng không biết sẽ nổ ra lúc nào. Không ai nghĩ ra được giải pháp cho 1 Triều Tiên thống nhất, và cũng không ai có thể đoán được tình hình trên bán đảo này sẽ diễn ra như thế nào. Có thể chỉ nay mai sẽ thống nhất. Cũng có thể sẽ không bao giờ thống nhất, mà sẽ chia hẳn, ly khai vĩnh viễn thành các quốc gia khác nhau như Ấn Độ (chia 4), Columbia (chia 3), Hà Lan (chia 3), Tiệp Khắc (chia 2)...
Thiếu Long
Tài liệu tham khảo
- John Feffer, North Korea South Korea: U.S. Policy at a Time of Crisis, Seven Stories Press, 2003
- Kang, Chol-Hwan (2001). The Aquariums of Pyongyang. Basic Books, 2001
- Mitchell B. Lerner, The Pueblo Incident: A Spy Ship and the Failure of American Foreign Policy, University Press of Kansas, 2002
- Oberdorfer, Don. The two Koreas: a contemporary history. Addison-Wesley, 1997
- Kong Dan Oh, and Ralph C. Hassig, North Korea Through the Looking Glass, The Brookings Institution, 2000
- Barnouin, Barbara; Yu, Changgeng (2006). Zhou Enlai: A Political Life. Hong Kong: Chinese University Press
- Chen, Jian (1994). China's Road to the Korean War: The Making of the Sino-American Confrontation. New York: Columbia University Press
- Cumings, Bruce (1981). Origins of the Korean War. Princeton University Press
- Dear, Ian; Foot, M.R.D. (1995). The Oxford Companion to World War II. Oxford, New York: Oxford University Press
Stein, R. Conrad (1994). The Korean War: "The Forgotten War". Hillside, NJ: Enslow Publishers
- Bermudez, Joseph S. (2001). Shield of the Great Leader. The Armed Forces of North Korea. The Armed Forces of Asia. Sydney: Allen & Unwin
- Homer T. Hodge, North Korea’s Military Strategy, Parameters, Spring 2003
- The International Institute for Strategic Studies (IISS) (2007). The Military Balance 2007. Abingdon: Routledge Journals
- Goncharov, Sergei N., Lewis, John W. and Xue Litai, Uncertain Partners: Stalin, Mao, and the Korean War (1993)
- Kim Il-sung (2003). With the Century. Korean Friendship Association.
- Baik, Bong. Kim Il Sung: Biography. Tokyo: Miraisha, 1969–1970. 3 vols.
- Cheong, Seong-Chang. "Stalinism and Kimilsungism: A Comparative Analysis of Ideology and Power". Asian Perspective 24.1 (2000)
- Kang, Kwang-Shick. "Juche Idea and the Alteration Process in Kim Il Sung's Works: A Study on How to Read Kim Il-Sung's Works". Monash University: KSAA Conference 2001. 25 September 2001
- Kiernan, Ben. The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia Under the Khmer Rouge, Yale University Press, 2002
- Kim, Jong-il. On the Juche Idea. 31 March 1982.
- Lee, Chae-Jin. "China and North Korea: An Uncertain Relationship". North Korea after Kim Il Sung. Eds. Dae-Sook Suh and Chae-Jin Lee. Boulder, CO: Lynne Rienner Publishers, 1998
- Sấm sét trên Thái Bình Dương, Tác giả: Albert Vulliez, Người dịch: Người Sông Kiên - Lê Thị Duyên, Nhà xuất bản: Sông Kiên, Năm xuất bản: 1974
- Ngọn lửa chiến tranh lạnh (Lãnh chiến phong hoả), Tác giả: Lý Kiện (Trung Quốc), Nhà xuất bản: Thanh Niên
- "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử", Tác giả: Trần Quang Thuận, Tu viện Quảng Đức xuất bản, 2004
- Hiến pháp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, 1972 (bản Anh ngữ)
- Tài liệu Internet
Ẩn số Triều Tiên, quá khứ - hiện tại - tương lai (phần 2 và hết)
2012-03-08T20:51:00-08:00
Thiếu Long
bắc hàn|bắc triều tiên|bình nhưỡng|chiến tranh triều tiên|hàn quốc|nam hàn|nam triều tiên|