9 điểm khác biệt lớn về hai cuộc chiến ở Việt Nam và Triều Tiên

Hiện nay có nhiều người cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên không khác bao nhiêu với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam, rằng đều là chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc, nếu có khác chăng thì chỉ là tiểu tiết. Trong bài viết Ẩn số Triều Tiên, quá khứ - hiện tại - tương lai, tôi đã viết một phần nói về các diễn biến và tính chất khác biệt giữa hai cuộc chiến này, nhưng do quá "ôm đồm", không muốn bỏ sót một chi tiết nhỏ nào, nên tôi đã liệt kê cả những tiểu tiết khác biệt. Trong bài này, tôi đã gạn lọc ra những khác biệt quan trọng, chính yếu, rút gọn lại và làm rõ hơn những sự khác biệt đó. Đó đều là những khác biệt lớn chứ không hề là tiểu tiết.

1. Quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng và liên quân Anh - Pháp đi vào giải giáp quân Nhật là đi vào một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã độc lập, là đi vào một quốc gia có chủ quyền. Quân Liên Xô và quân Hoa Kỳ đi vào giải giáp quân Nhật là đi vào một bán đảo Triều Tiên chưa có độc lập chủ quyền.

Sở dĩ như vậy là vì uy danh của Kim Nhật Thành và Đảng Lao động Triều Tiên không mang tính chất toàn quốc, thế và lực của họ không lan rộng ra được cả nước. Khi phát xít Nhật thua Đồng minh thì lực lượng Kim Nhật Thành vẫn còn rất yếu, chỉ được lòng dân một cách hạn chế, mang tính chất khu vực, địa phương, cục bộ, vì vậy họ không có cái thế và lực để tuyên bố độc lập như chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Việt Minh và Quân đội Nhân dân Việt Nam đã làm ở Việt Nam. Họ không đủ sức để làm nên được một cuộc Cách mạng tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật như ở Việt Nam.

Và khi Liên Xô đem quân vào Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ đem quân vào Nam Triều Tiên thì bán đảo Triều Tiên khi đó vẫn chưa có một nước, chưa có một quốc gia có chủ quyền. Còn Việt Nam thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước khi quân Đồng minh tiến vào.

Việt Nam thành lập Nhà nước, bầu cử Quốc hội, hoàn thành Hiến pháp, thành lập Chính phủ, khẳng định chủ quyền độc lập và thống nhất trên khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam trong thời gian 1945-1946, trong lúc "Quốc gia Việt Nam" và "Việt Nam Cộng hòa" của Pháp - Mỹ chưa hề tồn tại, và mãi về sau mới được Pháp - Mỹ dựng lên.

Trong kháng chiến chống Pháp, ban đầu tự tin với sức mạnh của một đội quân nhà nghề có trình độ phát triển, cấp độ văn minh khoa học kỹ thuật cao hơn Việt Nam nhiều thế kỷ, thực dân Pháp tưởng rằng chỉ cần vài tuần, hay lâu lắm thì cũng chỉ vài tháng là sẽ "làm cỏ" Việt Minh, Đảng, và chính phủ Hồ Chí Minh, thôn tính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy lại thuộc địa Đông Dương. Nhưng sau khi Việt - Pháp giao tranh với nhau đã 4 năm thì Pháp bắt đầu thấy không ổn, tới năm 1949, Pháp bắt đầu chiến lược "Da vàng hóa chiến tranh", dựng lên "Nam Kỳ quốc" (Nguyễn Văn Thinh đứng đầu), "Quốc gia Việt Nam" (tự xưng là "chính phủ Quốc gia", do Bảo Đại và Nguyễn Văn Xuân đứng đầu), tiền thân của "nước Việt Nam Cộng hòa".

Trên bán đảo Triều Tiên thì Lý Thừa Vãn ở Nam Triều Tiên thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc (Còn gọi là Cộng hòa Triều Tiên) vào ngày 15 tháng 8 năm 1948. Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vào ngày 9 tháng 9 năm 1948.

Như vậy, ở Việt Nam năm 1949 là giặc xâm lược Pháp đã dựng lên những "quốc gia" lên trên một quốc gia có chủ quyền, đã độc lập từ năm 1945, vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và luật pháp Việt Nam đã ban hành và có hiệu lực từ năm 1946. Trắng trợn hơn là thực dân Pháp đã làm những điều đó ngay trong lúc họ đang xâm lược Việt Nam và hai nước đang giao tranh với nhau.

Còn ở Triều Tiên thì cả hai phe đều lập quốc rất trễ và xấp xỉ cùng thời gian với nhau, và Đại Hàn Dân Quốc đã được thành lập trước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên gần 1 tháng.

Như vậy là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tiền thân của nước CHXHCN Việt Nam ngày nay) và CHDCND Triều Tiên có sự khác nhau về tính chính danh. Danh có chính thì ngôn mới thuận. Sự chính danh đưa tới sự chính ngôn để có được lòng dân và có sự danh chính ngôn thuận, làm sáng tỏ chính nghĩa của mình. Đó là một trong những sự khác biệt to lớn giữa hai bên, chứ không hề là tiểu tiết.

2. Ý chí quốc gia và tính nhất quán của chính phủ quốc gia đó trong vấn đề ngoại giao cũng nói lên được bản chất của sự việc. Ở đây chúng ta thấy ý chí của Việt Nam và sự nhất quán của chính phủ và Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam chưa bao giờ công nhận các ngụy quyền ở Sài Gòn và nói chuyện gì với họ, chưa bao giờ xem họ có tư cách của một quốc gia, nhà nước, chính phủ thật sự. Tóm lại là chưa bao giờ coi họ ra gì. Việt Nam muốn nói chuyện, muốn giải quyết vấn đề gì, muốn đề xuất việc gì thì tìm Pháp - Mỹ, những người có quyền thật sự mà nói.

Trong khi đó, trên bán đảo Triều Tiên vào thập niên 1970 quan hệ hai nước dần được cải thiện, và hai bên bán đảo Triều Tiên cùng công nhận sự hợp pháp của nhau. Năm 1976, Bình Nhưỡng đã chấp nhận lời đề nghị của Hán Thành thành lập Ủy ban Hỗn hợp Nam Bắc để giải quyết vấn đề tái hợp hai nước, thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng biện pháp hòa bình. Đại biểu, lãnh đạo, quan chức của hai quốc gia, kể cả Kim Nhật Thành và các tổng thống Hàn Quốc đã gặp gỡ nhiều lần tại thủ đô của hai bên.

Thử hình dung chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam đi gặp Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và đi nói chuyện với các công cụ chính trị, công cụ chiến tranh của Pháp - Mỹ, nghĩ đến cũng đã thấy buồn cười.

Đến năm 1991 thì cả CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc đã chính thức công nhận lẫn nhau để chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc cùng một lúc. Mặc dù năm 1948 Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết công nhận Đại Hàn Dân Quốc ngay sau khi Lý Thừa Vãn tuyên bố lập quốc, nhưng ngày 17 tháng 9 năm 1991 Hàn Quốc mới chính thức được kết nạp trở thành thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, cùng ngày với CHDCND Triều Tiên. Việc này cho thấy Kim Nhật Thành (lúc này vẫn còn cầm quyền) và CHDCND Triều Tiên đã chính thức thừa nhận sự chính danh của Đại Hàn Dân Quốc.

Như vậy là Việt Nam và CHDCND Triều Tiên khác nhau ở tính chính danh và ý chí nhất quán, trước sau như một làm sáng tỏ sự chính danh đó. Cũng như Hàn Quốc và các ngụy quyền ở Sài Gòn khác nhau về tính hợp pháp, cả về luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế. Hàn Quốc lập quốc cùng thời điểm với CHDCND Triều Tiên và sau này được Kim Nhật Thành và CHDCND Triều Tiên nhiều lần công nhận gián tiếp và trực tiếp, và năm 1991 đã công nhận chính thức. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chưa bao giờ công nhận "Nam Kỳ quốc", "Quốc gia Việt Nam", "Việt Nam Cộng hòa" là một quốc gia.

3. Khác nhau về tính chất cuộc chiến và thành phần tham chiến. Chiến tranh Triều Tiên có 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là cuộc chiến giữa quân đội Kim Nhật Thành từ phía Bắc đánh thẳng vào phía Nam và quân phòng thủ của Lý Thừa Vãn. Quân đội ngoại bang không có nhiều vai trò trong giai đoạn 1 này. Trong thời gian này quân Liên Xô và quân Mỹ đều đã rút khỏi.

Giai đoạn 2 là gần 100 vạn quân Trung Quốc chống nhau với các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu. Lúc này các chóp bu lãnh đạo CHDCND Triều Tiên đều không ở trong nước mà đang lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc, còn quân đội Triều Tiên về cơ bản đã tan rã. Quân đội Hàn Quốc trong giai đoạn 1 cũng đã không còn bao nhiêu thực lực, do đó không có vai trò gì nổi bật trong giai đoạn 2.

Như vậy giai đoạn 1 là quân trong nhà chống nhau và mang tính chất cục bộ. Giai đoạn 2 là quân bên ngoài đánh nhau trên bán đảo Triều Tiên. Chính vì vậy mà các trang web của chính phủ CHDCND Triều Tiên hiện nay trong phần lịch sử, họ không viết gì cặn kẽ, rõ ràng, cụ thể về cuộc chiến Triều Tiên mà viết rất ngắn gọn rồi lập tức đi đến kết luận vội vàng theo lợi ích của họ, hoàn toàn không nhắc đến vai trò của đại quân Trung Quốc, của nguyên soái Bành Đức Hoài. Phần "lịch sử" của họ về cuộc chiến này rất khác với những quan điểm chung của các chính phủ và giới sử học quốc tế, kể cả đồng minh Trung Quốc và giới sử học nước này.

Trường hợp ở Việt Nam thì khác, cuộc chiến ngay từ đầu đã diễn ra chủ yếu bằng lực lượng tại chỗ ở miền Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực chất chính là Quân đội Nhân dân Việt Nam của miền Nam Việt Nam. Thành phần của quân đội này bao gồm lực lượng quân sự, vũ trang chống Pháp của miền Nam "trốn" không tập kết ra Bắc, mà bí mật ở lại quê quán sau hiệp nghị Genève 1954, kết hợp bộ phận tăng viện từ miền Bắc (mà trong số này phần lớn chính là những người miền Nam đã tập kết ra Bắc và bây giờ trở về quê hương đánh Mỹ, những người này đã quen thuộc, thông thạo địa hình, đường xá quê nhà, có sẵn các mối quan hệ thân thiết, quen thuộc, do đó sẽ tác chiến du kích thuận lợi hơn) và lực lượng chiêu mộ tại chỗ ở miền Nam, trở thành lực lượng quân sự của Mặt trận (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) thực hiện mục tiêu chống Mỹ của Đảng và Nhà nước Việt Nam ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy, trường hợp ở Việt Nam không mang tính cục bộ như ở Triều Tiên, không phải là quân đội ở phía Bắc giao tranh với quân đội ở phía Nam như giai đoạn 1 trên bán đảo Triều Tiên. Chiến cuộc ở VN ngay từ ban đầu đã mang bản chất toàn quốc, với sự tham chiến chống Mỹ của cả nước. Thực tế chiến cuộc đã cho thấy là miền Nam đánh Mỹ trực tiếp, miền Bắc chi viện và bổ sung. Lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, đảng viên cấp cao thì có cả người Nam và người Bắc.

Trong những bộ phim tài liệu, chương trình kỷ niệm về thương binh, liệt sĩ, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ đã cho thấy rằng đa số họ là những người quê quán ở miền Nam, nói giọng Nam rặt. Ngay cả lực lượng bổ sung từ miền Bắc cũng thường là những người miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ chỉ là về lại quê hương miền Nam hoạt động và chiến đấu chống ngoại xâm. Do đó cuộc chiến này do lực lượng tại chỗ ở miền Nam chiến đấu trực tiếp, do nhiều người miền Nam chỉ huy, miền Nam trực tiếp chống Mỹ và tổn thất nhiều nhất.

Thống kê đã cho thấy số phụ nữ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (theo tiêu chuẩn có ít nhất 3 liệt sĩ là bản thân, chồng, hoặc con trai trong gia đình) ở miền Nam nhiều gần gấp đôi ở miền Bắc. Miền Nam có 29.220 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, miền Bắc có 15.033 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cho thấy một thực tế là quân đội, đảng viên, cán bộ miền Nam đã hy sinh nhiều hơn miền Bắc.

Nhiều cán bộ, đảng viên, lãnh đạo, tướng lĩnh, quân nhân làm việc, công tác ở ngoài Bắc trong thời gian đó cũng chính là từ miền Nam. Nhiều trường miền Nam đã được xây dựng ở miền Bắc để nuôi dạy các “hạt giống đỏ” thiếu nhi miền Nam.

Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám diễn ra trên cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập trên cả nước. Quốc hội Việt Nam DCCH được bầu trên cả nước. Hiến pháp 1946 được ban hành cho cả nước. Cả nước chống Pháp.

Theo hiệp định Genève, Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam tập kết ra Bắc, tuy nhiên có một bộ phận rất lớn đã "trốn" tập kết mà bí mật ở lại nơi chôn nhau cắt rốn, hoạt động cách mạng. Đồng thời, ngụy quân miền Bắc của thực dân Pháp cũng tập kết vào Nam. Sau đó là cả nước chống Mỹ. Như vậy, cuộc chiến ở Việt Nam mang tính toàn quốc chứ không mang tính vùng miền như ở bán đảo Triều Tiên.


Nhân dân miền Nam giương cao cờ Mặt trận biểu tình chống Mỹ


Nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ-ngụy với ảnh Bác

4. Yếu tố lòng dân cũng là một sự khác nhau quan trọng. Trong đa số những cuộc biểu tình chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, giới trẻ, thanh niên, sinh viên Sài Gòn và cả miền Nam giương cao những băng rôn, biểu ngữ ủng hộ, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, giương cao quốc kỳ, cờ Mặt trận, cờ Đảng (cờ búa liềm), giương cao hình Bác Hồ, hình đại tướng Võ Nguyên Giáp...

Trong khi đó xưa nay chưa hề có một cuộc biểu tình nào ở Hàn Quốc mà có được 1 biểu ngữ, khẩu hiệu nào tỏ thái độ ủng hộ Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, gia tộc họ Kim, Đảng Lao động Triều Tiên hay CHDCND Triều Tiên, không thấy ai giơ cao quốc kỳ CHDCND Triều Tiên hay cờ Đảng Lao động Triều Tiên, cũng không ai giơ lên hình Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật.

Tại Hàn Quốc, một bộ phận tuy có thể là không ưa Mỹ, không ưa chính phủ Hàn Quốc, nhưng họ không theo Bắc Triều Tiên. Họ không đào hầm nuôi giấu các điệp viên từ Bình Nhưỡng, họ không cầm súng bạo động chống lại Hàn Quốc, Mỹ, Liên Hiệp Quốc.

Trong thập niên 1950, Kim Nhật Thành đã từng cho đào rất nhiều đường hầm xuyên qua vĩ tuyến 38 để đột nhập vào Nam. Trong đó có 3 đường hầm được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Nhiều cán binh Bắc Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt. Bắc Triều Tiên không len lỏi, trà trộn vào nổi, không xây dựng được căn cứ, cơ sở nào ở Nam Triều Tiên, đó là do họ không có nền tảng quần chúng, không có đủ lòng dân, không hội đủ yếu tố "nhân hòa" như ở miền Nam Việt Nam.

Người dân Hàn cũng không có gởi con em, con cháu đi theo CHDCND Triều Tiên. Tại miền Nam VN thì đa số người dân miền Nam có cảm tình với Mặt trận, ủng hộ Đảng, tin vào Bác Hồ, bà mẹ miền Nam gởi con ra Bắc đã dặn: "Con ra thưa với cụ Hồ, Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao". Người dân Nam VN đào hầm nuôi giấu cách mạng và cho con em, con cháu mình ra bưng biền, ra chiến khu, ra những vùng giải phóng đi theo kháng chiến.

Đó là những sự khác biệt thấy rõ về lòng dân, lòng dân ở Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên!


Nhân dân Sài Gòn - Gia Định giơ cao ảnh Bác và biểu tình biểu dương lực lượng, ăn mừng chiến thắng 30/4

5. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hồ Chí Minh có cơ sở lịch sử và nhiều chứng cứ, văn kiện pháp lý cho thấy tính chính danh, chính thống rõ như ban ngày và không thể tranh cãi của mình. Còn Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Chính phủ Kim Nhật Thành thì không có cơ sở lịch sử đủ mạnh (như đã phân tích ở trên) và họ còn không có bất kỳ một chứng cứ, văn kiện pháp lý nào cho thấy tính chính thống, chính danh của họ.

Năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, Việt Nam giành lại được độc lập, với quốc hiệu chính thức là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1946, cả nước tổng tuyển cử Quốc hội, bầu ra Quốc hội khóa I và hoạt động liên tục một cách hợp hiến, hợp pháp cho tới ngày nay.

Các văn bản, văn kiện có giá trị pháp lý sau đó như: Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946, sắc lệnh 229/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh quy định các cơ quan quân sự trên toàn cõi Việt Nam (bao gồm ở miền Nam Việt Nam) đều trực thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam DCCH vào tháng 11 năm 1946, tuyên cáo 12 khu hành chính của Việt Nam DCCH (trong phạm vi cả nước) cũng vào tháng 11 năm 1946, và hiệp định Genève 1954. Tất cả những văn kiện pháp lý đó đều minh định một nguyên tắc cơ bản: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước độc lập và thống nhất từ Bắc chí Nam.

Những dấu ấn lịch sử đó, những vật chứng lịch sử đó đã xuất hiện trong lúc trên đất Việt không hề tồn tại bất kỳ một quốc gia, nhà nước, chính thể, chính quyền, ngụy quyền nào khác, và cả sau này cũng không có một quốc gia, nhà nước, chính thể nào khác được bầu ra theo một thể thức như vậy, mà mang tính đại chúng, mang tính quốc gia trên cả nước, và đậm đặc ý chí toàn dân đến như vậy.

Ngay cả hiệp định Genève về Đông Dương cũng chỉ công nhận làn ranh giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử, tạm chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho 2 bên tập kết chứ không nói gì đến vấn đề thay đổi lãnh thổ. Theo hiệp định này, vĩ tuyến 17 không phải là làn ranh có ý nghĩa về lãnh thổ, chính trị, hay địa lý. Hiệp nghị này không có ý nghĩa chia đôi đất nước về lãnh thổ và chính trị.

Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần "Thỏa hiệp" và phần "Tuyên bố Cuối cùng" (Final Declaration).

Phần "Thỏa hiệp", gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil, Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng quốc phòng Việt Nam. Phần này có những điều khoản chính như sau:

- Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (military zone) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính ngụy ở dưới vĩ tuyến 17.

- Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.

Bản "Tuyên bố cuối cùng" gồm 13 đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của Việt - Miên - Lào, trong đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng:

Đoạn (6) (Paragraph (6)) nguyên văn như sau:

"Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam".

(The Conference recognizes that the essential purpose of the Agreement relating to Vietnam is to settle military questions with a view to ending hostilities and that THE MILITARY DEMARCATION LINE IS PROVISIONAL AND SHOULD NOT IN ANY WAY BE INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR TERITORIAL BOUNDARY. The Conference expresses its conviction that the execution of the provisions set out in the present Declaration and in the Agrrement on the cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the near future of a political settlement in Vietnam.)

Và phần đầu của đoạn (7) nguyên văn như sau:

"Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu kín." [Được ấn định vào tháng 7, 1956].

(The Conference declares that, so far as Vietnam is concerned, the settlement of political problems, effected on the basis of respect for the principles of independence, unity and territorial integrity, shall permit the Vietnamese people to enjoy the fundamental freedoms, guaranteed by democratic institutions established as a result of free general elections by secret ballot..)

Tổng kết nội dung cơ bản của Hiệp ước Genève về Đông Dương:

- Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam - Campuchia - Lào.

- Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.

- Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập trung quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Pháp-ngụy (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.

- 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.

- 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để tái thống nhất Việt Nam.

Sau đó, như mọi người đã biết, Mỹ đã từ hậu trường chính trị nhảy ra sân khấu chính trị, xuyên tạc và phủ nhận hiệp định Genève về Đông Dương, ngăn cản việc thi hành cuộc tổng tuyển cử tự do, ai có hành động tổ chức tổng tuyển cử là bắn bỏ, thậm chí ai nói gì về việc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước là bị vu cáo là "cộng sản", là "Việt Cộng", là đang tuyên truyền tiếp tay cho "Bắc Việt" và trấn áp, bắt bớ, giam cầm, tra khảo, tra tấn. Ém nhẹm, xuyên tạc những nội dung chính của hiệp định, phá hoại các điều khoản chính trong hiệp định, và nghiêm trọng nhất là điều khoản: "ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI". Đây là những dữ kiện lịch sử khách quan không thể nào chối bỏ.

Hiến pháp năm 1959 cũng nhắc lại và nhấn mạnh những nguyên tắc trên. Như vậy, bất kỳ thế lực bên ngoài nào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam và tạo ra những "quốc gia" lên trên một quốc gia đã tồn tại hàng ngàn năm, dựng lên những "nhà nước" lên trên một nhà nước đã thành lập từ năm 1945, lập ra những "quốc hội" lên trên Quốc hội khóa I đã bầu cử toàn quốc từ năm 1946 thì đều là vi phạm luật pháp Việt Nam, xâm phạm và chà đạp lên chủ quyền của Việt Nam.

Hãy hình dung nếu bây giờ Trung Quốc chiếm đóng miền Bắc Việt Nam rồi dựng lên một "nước Cộng hòa Nhân dân Việt Nam", đưa một hậu duệ nào đó của Hoàng Văn Hoan lên làm "chủ tịch anh minh", "thủ tướng anh minh". Hay Hoa Kỳ chiếm đóng miền Nam Việt Nam rồi tái lập một "nước Việt Nam Cộng hòa", hoặc giả thành lập một "nước Dân chủ Việt Nam", "nước Việt Nam Tự do" nào đó, đưa Đỗ Hoàng Điềm, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Hữu Chánh, Lý Tống... về làm "tổng thống anh minh" trên đất Việt Nam, thì có phải là vi phạm luật pháp Việt Nam, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam hay không?

Bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên diễn ra gần như cùng thời điểm với nhau, và chỉ diễn ra trong phạm vi Nam - Bắc, trong phạm vi thuộc vùng kiểm soát, quản lý của hai bên. Kim Nhật Thành có gởi một đoàn vài chục nhân viên vượt vĩ tuyến vào Nam "lấy lá phiếu bầu cử" nhưng chỉ có ý nghĩa tượng trưng, vì mấy chục người này vào Nam vừa lộ diện ra là người thì bị cảnh sát, quân đội của Lý Thừa Vãn đuổi bắn, người thì sa vào tay đặc vụ của Lý. Không còn bao nhiêu người sống sót trở về Bắc.

Như vậy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và chứng cứ pháp lý rõ ràng. Triều Tiên thì cơ sở lịch sử yếu và không có chứng cứ pháp lý.

6. Việt Nam chủ động đấu tranh để thi hành tổng tuyển cử, Mỹ không dám để cho tổng tuyển cử được diễn ra, trái lại còn dùng bạo lực phản cách mạng đàn áp, bắt giữ, thảm sát và gây ra nhiều tội ác để chống tổng tuyển cử. CHDCND Triều Tiên thì tránh né vấn đề tổng tuyển cử và từ chối tổng tuyển cử, Lý Thừa Vãn thì đề nghị tổng tuyển cử.

Tại Việt Nam, Mỹ bác bỏ tổng tuyển cử theo hiệp định Genève 1954 vì CIA biết chắc Hồ Chí Minh sẽ thắng. Tại bán đảo Triều Tiên, vào tháng 11 năm 1947, Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành tổng tuyển cử tại Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của một ủy ban của LHQ. Lý Thừa Vãn yêu cầu tổng tuyển cử vì thấy Kim Nhật Thành cũng không có được lòng dân bao nhiêu và nghĩ rằng mình sẽ thắng do Nam Triều Tiên dân số gần gấp đôi Bắc Triều Tiên. Nhưng Liên Xô và Kim Nhật Thành đã từ chối.

Thất bại trong đề xuất tổng tuyển cử đưa tới việc hai bên tự thành lập quốc gia ở hai đầu Nam - Bắc vào năm 1948. Điều này nói lên sự không đủ chính danh, kém về chính nghĩa, và phần nào nói lên yếu tố lòng dân của CHDCND Triều Tiên.

7. Bản chất, lai lịch của những lãnh đạo chính quyền và sĩ quan quân đội của Hàn Quốc và của ngụy Sài Gòn là khác nhau. Các tướng tá, sĩ quan Hàn Quốc hiếm có người nào từng phục vụ cho đế quốc Nhật trong lúc người Nhật đô hộ bán đảo Triều Tiên. Đa số họ cũng là những người chống Nhật, từng phục vụ trong Quân Giải phóng Triều Tiên (Hàn Quốc Quang phục quân). Còn các chóp bu, tướng tá, sĩ quan của ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn đa phần đã từng phục vụ cho thực dân Pháp trong thời Pháp thuộc.

Họ có Pháp tịch, nói tiếng Pháp, đeo huân chương Pháp, học ở Pháp, được Pháp phong chức, trả lương, đào tạo, bảo bọc. Nhiều gia đình có “thành tích” làm việc cho thực dân Pháp nhiều đời, đàn áp nghĩa quân rất tàn ác. Có cả những kẻ nói tiếng Pháp thạo hơn cả tiếng Việt (như tướng Nguyễn Văn Hinh). Có cả những kẻ chỉ huy ngụy quân trong trận Điện Biên Phủ bên cạnh chủ Pháp, phất cờ Tam tài, hát quốc ca Pháp (như tướng Phạm Văn Phú). Quân đội “Việt Nam Cộng hòa” được xây dựng và phát triển từ quân đội “Quốc gia Việt Nam” thời Pháp, từ lực lượng ngụy quân nòng cốt và những tay sai đắc lực của thực dân Pháp.

Gs. Nguyễn Mạnh Quang, là giáo sư khoa Sử - địa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, hiện nay là giảng viên khoa Lịch sử Hoa Kỳ tại Sở Học Chánh Tacoma, bang Washington, Hoa Kỳ, đã nhìn nhận:

"Thật tình mà nói, giới lãnh đạo quân sự và chính trị của hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng hòa là một lũ tay sai của Pháp đào tạo để phục vụ cho thực dân Pháp cho nên trong máu họ mang tính tay sai lúc nào cũng nhìn trước ngó sau ông chủ có vừa lòng hay phật ý cho nên khi nắm quyền lãnh đạo ở Sàigòn nhưng mắt cứ để ý ở Washington, Paris, Rome. Trong số này cũng có nhưng rất hiếm người có lòng với quốc gia dân tộc thì lại bị tập đoàn Ngô Đình Diệm loại bỏ bằng nhiều hình thức. Trong quân đội và hành chánh có nhiều người trẻ được đào tạo sau khi thực dân Pháp cáo chung, họ có tài có tâm huyết song không phải là cấp chỉ đạo mà là những kẻ thừa hành thì làm được gì vì quyền cao chức trọng nằm trong tay đám tay sai của thực dân Pháp đào tạo quyết định."

Yếu tố con người cũng rất quan trọng. Bản chất của từng con người trong bộ máy đó, chế độ đó nói lên nhiều điều.

8. Rất nhiều lãnh đạo Hoa Kỳ, trong đó cả tổng thống đã chủ động thừa nhận (như Ts. Daniel Ellsberg, sĩ quan Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, chuyên viên phân tích của Lầu Năm Góc) hoặc vô tình lỡ lời (như Tổng thống Johnson, Đại tướng Taylor, TT. Nixon) nói lên bản chất bù nhìn của ngụy Sài Gòn và thực tế ai là chủ trong mối quan hệ Mỹ-ngụy. Nixon hù dọa sẽ cắt đầu Thiệu nếu cần (Cut off his head if necessary), "cố vấn" Mỹ cười cợt đòi bắn bỏ Thiệu, Nixon ví ngụy quyền như cái đuôi của mình v.v. Ngoài giới chính trị, quân sự Hoa Kỳ thừa nhận bản chất tay sai của ngụy quyền Sài Gòn thì những người dân thường Mỹ cũng coi ngụy quyền Sài Gòn chỉ là bù nhìn của chính phủ họ. Điều này thể hiện trên các băng rôn trong phong trào phản chiến khắp nơi trên đất Mỹ và cả thế giới.



Và rất nhiều chóp bu ngụy, trong đó có cả "tổng thống", "phó tổng thống", "thủ tướng", tướng tá sĩ quan ngụy đã chủ động thừa nhận hoặc sơ ý lỡ lời nói lên bản chất bù nhìn của chế độ mình, quân đội mình. Trong đó có những người sau này đã không còn chống đối nữa (Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Đỗ Mậu, Trần Chung Ngọc v.v.) và cả những người chống cả đời hoặc vẫn đang chống đối (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Đôn, Đặng Văn Nhâm, Trần Viết Đại Hưng, Cao Văn Viên v.v.).

Trong giai đoạn đấu tranh giằng co với Việt Nam trong hội nghị Paris, khi "tổng thống" Nguyễn Văn Thiệu xin cho mình khỏi phải ký tên vào Hiệp định Paris 1973 vì ông ta bảo rằng đây là hiệp định “bán đứng miền Nam cho cộng sản”, thì có một lần Nixon đã nói với Kissinger: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được."

Và sau đó Thiệu vẫn phải nhịn nhục ký vào hiệp định và ông ta thừa biết dù không ký thì ông ta vẫn sẽ bị gạt ra và hiệp định vẫn sẽ được thông qua, thậm chí ông ta có thể bị gì đó, gương Ngô Đình Diệm sờ sờ trước mắt.

Theo Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chế độ Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong cuốn “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” (The Palace File) xuất bản năm 1986 thì trong thời điểm đó Mỹ đã nhiều lần gởi thơ yêu cầu, bắt buộc, và đe dọa (thậm chí đe dọa tính mạng) Thiệu phải ký vào hiệp định.

Theo sách "Vietnam, a History" của nhà sử học Stanley Karnow, do NXB Edition King Press xuất bản năm 1983, khi phóng viên hỏi tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tại sao lại chọn Diệm mà không phải là một nhân tuyển khác, thì Johnson đã trả lời: "Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó." (Diem is the only boy we’ve got out there). Lưu ý ông Diệm là một người trung niên đã lớn tuổi.

Tuy nhiều câu nói của các tổng thống Mỹ đôi lúc chỉ là sự lỡ lời, nhưng điều đó cũng nói lên rằng họ không hề tôn trọng và không coi ngụy quyền Sài Gòn ra gì.

Cựu sĩ quan Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, chuyên gia phân tích của Lầu Năm Góc, Ts. Daniel Ellsberg trong cuốn sách "Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers", NXB Viking xuất bản năm 2002, đã cho biết:

“Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, mà chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: Mới đầu là Pháp - Mỹ (1945-1954), sau đến toàn là Mỹ (1954-1975). Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.

Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó đã không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến."

(There had been no First and Second Indochina Wars, just one continuous conflict for almost a quarter of century.

In practical terms, on one side, it had been an American war almost from its beginning: at first French-American, eventually wholly American. In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough to persist – against American policy and American financing, proxies, technicians, firepower, and finally, troops and pilots.

It was no more a “civil war” after 1955 or 1960 than it had been during the US-supported French at colonial reconquest. A war in which one side was entirely equipped and paid by a foreign power – which dictated the nature of the local regime in its own interest – was not a civil war.)


Ts. Daniel Ellsberg biết những điều đó là vì ông là quan chức cao trong chính phủ Mỹ, đã từng đọc được những tài liệu mật của Mỹ và biết rõ về thực chất cuộc chiến tại Việt Nam. Chính ông là người đã tiết lộ tài liệu Lầu Năm Góc. Và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ không phải là trong thời kỳ chống chiến tranh xâm lược sôi nổi trên đất Mỹ. Nếu chúng ta đã đọc một số những sách viết về Chiến tranh Việt Nam, viết sau 1975, của các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng đa số đồng ý với Daniel Ellsberg về điểm này.

Tướng Đỗ Mậu (từng là "Phó thủ tướng" ngụy) đã viết về Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu trong phần "Lời Mở Đầu" của hồi ký "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi", do nhà xuất bản Hương Quê xuất bản năm 1986 ở Mỹ và sau này nhà xuất bản Văn Nghệ tái bản lại cũng ở Mỹ như sau: "Người thì muốn nối dài biên giới Hoa Kỳ từ Alaska đến sông Bến Hải, người thì đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ 'chống Cộng'".

Sử gia Jacques Dalloz cũng ghi nhận trong quyển "The War in Indochina 1945-1954" câu nói của Diệm: "Biên giới của Mỹ không ngừng ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, mà kéo dài, ở Đông Nam Á, tới sông Bến Hải, ở vĩ tuyến 17 của Việt Nam, hình thành một biên giới của 'thế giới tự do', cái mà chúng ta đều trân quý." (The frontiers of the United States do not stop at the Atlantic and Pacific Coasts, but extend, in South East Asia, to the Ben Hai river, which partitions Viet-Nam at the 17th parallel, and forms the threatened border of the Free World, which we all cherish.")

Ông Diệm đã lỡ lời, nói hớ rằng biên giới Hoa Kỳ kéo dài tới sông Bến Hải, vĩ tuyến 17. Sau đó báo chí Sài Gòn kiểm duyệt, cắt xén và biên tập lại thành "biên giới tự do kéo dài đến sống Bến Hải" cho đỡ bộc lộ bản chất tay sai. Sau đó Diệm cũng nói chữa lại bằng một câu khác, nhấn mạnh "biên giới tự do" thay thế "biên giới Hoa Kỳ".

Sử liệu "Vietnam, the ten thousand day war", NXB Thames Methuan, London, xuất bản năm 1982 đã ghi nhận một số câu nói của Nguyễn Văn Thiệu: "Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng ta nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng ta sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!", "Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống cộng.""Tôi chỉ là một tổng thống nghị gật."

Trong bộ phim tài liệu "Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày" (Tập đoàn Truyền thông Canada - CBC sản xuất, đạo diễn danh tiếng Micheal MacLear thực hiện vào năm 1980), phát lại một số video phỏng vấn cũ trong thời chiến, đã cho thấy rõ Thiệu - Kỳ trả lời phỏng vấn tự thú nhận rằng mình là bù nhìn, nghị gật, con rối của Mỹ, và ông Kỳ cũng thừa nhận chính người Mỹ coi mình là bù nhìn.

Hai người "tổng thống" và "phó tổng thống" này khi trả lời phỏng vấn truyền hình Mỹ đã lỡ lời nói ra bản chất của cái gọi là "Việt Nam Cộng hòa", tiết lộ bản chất con rối, bù nhìn của Mỹ. Những đoạn video clips tài liệu này được nhóm làm phim "Cuộc chiến 10.000 ngày" của Canada mua lại và phát lên trong phim tài liệu của họ. Trong đó cho thấy khi trả lời phỏng vấn bằng tiếng Anh, Nguyễn Văn Thiệu đã nói: "Tôi là một nghị gật, nếu không phải là một bù nhìn." (I'm a yes-man, if not a puppet.).

Ông Nguyễn Cao Kỳ thì nói: "Việt Cộng luôn đối xử với chúng tôi như là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ, nhưng rồi chính người Mỹ cũng coi chúng tôi là những con bù nhìn của Mỹ, chứ không phải các nhà lãnh đạo thật sự của người dân Việt Nam." (Vietcong always treats us like a puppet of the Americans, but then the American people also considered us as a puppet of the Americans, not a true leader of the Vietnamese people.).

Ngoài ra, ông Kỳ khi trả lời trong cuộc phỏng vấn Báo Thanh Niên, số Xuân Ất Dậu, năm 2005 cũng đã thẳng thắn thừa nhận: "Ông Mỹ lúc nào cũng đứng ra làm kép chính, chúng tôi không có quyền lực và vai trò gì quan trọng, vì vậy nhiều người cho đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê."

Trong phim tài liệu "Vietnam: A Television History" do đài PBS, NBC, và ABC hợp tác sản xuất, có đoạn phóng viên phỏng vấn Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ kể lại sau khi ông ra lệnh đàn áp cuộc đấu tranh của Phật giáo và muốn hạ bệ tướng Nguyễn Chánh Thi trong một cuộc chiến quyền lực, vào đầu năm 1965. Sau đó ông và các tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, và Nguyễn Chánh Thi bị "đại sứ" Mỹ triệu tập vào và đập bàn ghế chửi mắng thậm tệ. Cựu "phó tổng thống" Nguyễn Cao Kỳ thật thà thú nhận rằng từ nhỏ tới lớn ông chưa bao giờ bị chửi mắng thậm tệ như thế, ngay cả cha ruột của ông cũng chưa bao giờ chửi mắng ông ta nặng và lâu đến như vậy. Sau đó, Nguyễn Khánh bị Mỹ lưu đày, và năm 1966, Nguyễn Chánh Thi cũng chịu chung số phận.

Theo quan hệ thông thường giữa các quốc gia, chỉ có chính quyền sở tại triệu đại sứ đến nói chuyện, đằng này ngược lại, mà còn bị chửi mắng, xúc phạm, sỉ nhục. Đây là một trong những điều cho thấy bản chất thật của chế độ Sài Gòn và quân đội Sài Gòn là gì.

Ngoài ra, phim tài liệu "Heart & Mind" của đạo diễn Peter Davis, do đài BBC Anh quốc sản xuất năm 1974 và đoạt giải Oscar cho phim tài liệu hay nhất năm 1975 cũng cho thấy cảnh Nguyễn Khánh cho biết Nhà ngoại giao, Đại tướng Maxwell D. Taylor của Mỹ đã đích thân ra lệnh cho ông ta phải rời khỏi nước Việt Nam. Thậm chí, Nguyễn Khánh còn lén ghi âm lại lệnh lưu đày của Taylor.

Theo các tướng tá cũ của quân đội Sài Gòn như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu "dân biểu" Lý Quý Chung thì sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Francois Vunuxem đã tới gặp "tổng thống" Dương Văn Minh và đề nghị kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu ngụy quyền Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch. Tướng Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương cục miền Nam thông qua em trai Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá QĐNDVN) và gia đình đã thuyết phục từ trước, nên ông đã từ khước và nói: "Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Cộng."

Tướng Cao Văn Viên là 1 trong 5 đại tướng trong quân đội Sài Gòn. Ông ta giữ chức Tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy lâu nhất, từ năm 1965 đến 1975. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Cao Văn Viên chạy theo người Mỹ sống luôn bên Mỹ, qua đời ở tiểu bang Virginia vào năm 2008. Trong hồi ký để lại, ông viết: “Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi!”. Và còn nhiều câu khác gián tiếp cho thấy tính chất "tầm gửi" của ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn.

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cựu phụ tá Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn, là một trong số 16 nhân vật lãnh đạo chức lớn nhất trong chế độ ngụy quyền còn ở lại khi Sài Gòn được giải phóng tháng 4/1975, đã trả lời phóng viên của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010:

"Pháp đã ở Việt Nam 100 năm. Pháp đi sau Hiệp định Genève thì Mỹ lại nhảy vô.

Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay. Ở miền Nam này, đã xảy ra không biết bao nhiêu cuộc đảo chánh - mười mấy lần chứ có ít đâu.

Tụi tôi trong quân đội, học ở Mỹ, học tiếng Mỹ, đi thăm Mỹ... đủ hết. Rồi tụi tôi cũng có nhiều bạn Mỹ rất tốt bụng, nhưng với Mỹ thì tôi vẫn không có bằng lòng. Thậm chí lần đi thăm đại bản doanh Cục Tình báo Trung ương (CIA) bên đó, thấy sợ hơn là thấy thích.

Người Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao... Mỹ nắm hết. Rồi chính Mỹ đã bỏ miền Nam Việt Nam."


Trong bài tham luận "Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975" của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, và hiện đang hoạt động chống cộng sản ở Lawndale, Mỹ:

"Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột " Nguyễn văn Thiệu.

Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lửa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo.

Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Nguyễn Cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký Hiệp định Paris về Việt Nam vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào Hiệp định Paris về Việt Nam dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản. (Xin đọc kỹ cuốn sách Hồ sơ mật Dinh Độc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký)."

"Việt Nam Cộng hòa chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm (1954-1975). Miền nam được sự bảo trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4.

Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh với Việt Nam Cộng hòa mà chỉ độc đoán điều hành sắp đặt mọi việc. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống Cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống Cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu."


Trong một số bài viết về lịch sử hiện đại Việt Nam, như bài "30 tháng tư, nhìn lại cuộc chiến ở Việt Nam", "Tôi đọc bài của Phạm Cao Dương về Đại tướng Võ Nguyên Giáp", "Vài nét về Cụ Hồ" v.v. Giáo sư Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, cựu sĩ quan quân đội Sài Gòn, cựu giảng viên Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, hiện đang sinh sống tại Grayslake, Illinois, Hoa Kỳ, đã viết:

"Nhìn cuộc chiến ở Việt Nam đơn giản chỉ là cuộc chiến giữa lý tưởng "tự do dân chủ" của "người Việt Quốc gia" đối với lý tưởng "độc tài sắt máu" của người Việt Cộng sản là không hiểu gì về cuộc chiến cả. Do đó kéo dài hận thù đối với Cộng sản là một hành động vô trí, bắt nguồn từ cái nhìn rất thiển cận của mình về cuộc chiến. Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc Chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. "Người Việt Quốc gia" thường cho Nam Việt Nam là "đồng minh" trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, để chống Cộng cho họ. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, "Nam Việt Nam" chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi “thành phần quốc gia” là “đồng minh” của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền."

"Đối với một thiểu số người Việt lưu vong, thì ngày 30/4/75 là ngày mà họ gọi là ngày “mất nước” làm như miền Nam là nước của riêng họ. Tuy rằng nước vẫn còn đó, và càng ngày càng phát triển, ngày nay đã vượt trội hẳn cái “nước” của họ khi xưa mà thực ra chỉ là cái “nước” nằm trong sự chi phối của những đồng đô la viện trợ và sự chỉ đạo của các quan Toàn Quyền như Nolting, Lodge, Martin."

"Không phải là sau Hiệp định Genève về Đông Dương Mỹ mới can thiệp vào Việt Nam mà Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam từ trước đã lâu. Mỹ đã đồng lõa với thực dân Pháp trong mưu toan tái lập nền đô hộ của Pháp trên dân Việt Nam. Những người thực sự tin rằng Mỹ là “đồng minh” của Nam Việt Nam, muốn giúp dân Việt Nam để chống lại Cộng sản, để cho dân Việt Nam, hay ít ra là dân miền Nam, được tự do dân chủ, nên nhớ kỹ rằng chính Mỹ đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho Pháp trong cuộc chiến tiền-Genève, từ 1945 đến 1954, để Pháp tái lập nền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở lại vòng nô lệ Pháp, trong khi Mỹ đã biết rõ chế độ thực dân Pháp đối với dân Việt Nam là như thế nào. Lịch sử Việt Nam sẽ lên án hành động đế quốc thực dân này. Nếu chúng ta coi Pháp là quân xâm lăng thì Mỹ cũng là kẻ xâm lăng không kém. Chỉ sau khi Pháp thất trận Mỹ mới đưa ra chiêu bài giúp Việt Nam, bảo vệ nền tự do (sic) của Nam Việt Nam trong khi, như chúng ta đã biết, theo Hiệp định Genève về Đông Dương, Nam Việt Nam không phải là một quốc gia độc lập mà chỉ là một vùng rút quân của Pháp và những lực lượng quân sự dưới quyền Pháp, trong đó có lực lượng "Quốc gia", chờ ngày Tổng Tuyển Cử trên toàn thể đất nước vào năm 1956."

"Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào. Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một người Việt Nam, một người Việt Nam không "Quốc gia" không Cộng sản, không Nam không Bắc, một người Việt Nam không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ bỏ lịch sử khi vinh khi nhục của quốc gia, và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện với lịch sử chống xâm lăng của dân tộc. Khía cạnh tích cực nhất của ngày 30/4/75 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh đồng bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược."


Trong bài viết gởi nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân trên trang phản động "Đàn chim Việt", Đặng Văn Âu, cựu sĩ quan ngụy, một trong những tên tay sai đắc lực nhất, chó săn trung thành nhất của chủ Mỹ trước năm 1975, đã viết:

"Cần phải vận động Hoa Kỳ cho Việt Nam trở thành một tiểu bang của nước Mỹ. Chỉ còn có cách ấy, nhân dân ta mới có thể chống nổi tham vọng bành trướng của người Đại Hán. Mày nghĩ rằng tao đề nghị như thế là bán Tổ Quốc Việt Nam cho ngoại bang phải không? Cũng đành lòng thôi! Tao nhận thấy cái đường lối cai trị của Đảng Cộng Sản hiện nay, trước sau gì rồi Việt Nam cũng trở thành Giao Chỉ Quận. Thà làm một tiểu bang của Hoa Kỳ, người dân Việt Nam sẽ có đủ các quyền tự do, các giá trị làm người được Hiến Pháp do ông Jefferson viết ra bảo đảm. Còn Hiến Pháp Việt Nam (dù năm 1946) chỉ là thứ trang trí cho có vẻ huê dạng dân chủ mà thôi. “Thà làm công dân nước Mỹ; con hơn làm nô lệ nước Tầu”, không sướng sao?"

"Làm con chó ở Mỹ sướng lắm! Bất cứ chủ chó nào ngược đãi chó là bị hàng xóm gọi cảnh sát can thiệp ngay! Không như ở Việt Nam, Công An đánh chết người vô tội cũng chẳng bị pháp luật trừng trị.

Việt Nam trở thành tiểu bang Hoa Kỳ, người Việt Nam sẽ có hy vọng làm Tổng thống của đại cường, không có ai dám khinh dễ. Ông Obama bố sang Hoa Kỳ chơi một vòng rồi trở về Phi Châu, để lại một giọt máu – Barrack Hussein Obama – trở thành Tổng thống là một minh chứng hùng hồn nhất. Các đại gia lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã lo xa, đều đem tiền ăn cướp của dân, sang Mỹ mua nhà to cả rồi! Chỉ hiềm một nỗi Hoa Kỳ không chấp thuận cho làm một tiểu bang của họ thôi!"


Trong bài tuyên truyền "Thằng Mỹ đô hộ coi bộ khỏe hơn" trên trang phản động "Dân luận", Nguyễn Ngọc Già, cựu "anh hùng mũ đỏ" của ngụy quân đã úp mở viết câu kết luận ngay cuối bài: "Thôi thì... cho thằng Mỹ nó đô hộ coi bộ khỏe hơn."

Trong một số diễn đàn của các "hội ái hữu" cựu quân nhân quân ngụy Sài Gòn như diễn đàn Biệt Động Quân, diễn đàn Thủy quân Lục chiến, diễn đàn Sư đoàn Dù, diễn đàn Sư đoàn 1 Bộ Binh, diễn đàn "Mũ xanh", "Mũ đỏ" v.v., khi đăng lại 2 bài trên, một số người chướng tai gai mắt đã vào phản đối thì nhiều thành viên từng là lính ngụy đã chống chế và hô hào kêu gọi bắt "CSVN" phải tổ chức trưng cầu dân ý một cách dân chủ về việc biến Việt Nam thành một tiểu bang thứ 51 của Mỹ, chính thức sát nhập Việt Nam vào nước Mỹ.

Họ xem đó là một "vinh dự", "vinh hạnh" của dân tộc Việt Nam khi "được" làm một tiểu bang Hoa Kỳ. Thậm chí một số người còn cho rằng VN "không xứng đáng được làm một tiểu bang của Mỹ", "VN tuổi gì mà được Mỹ cho phép như thế" v.v. Đúng như giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã nhận định, tư tưởng tay sai, nô lệ đã ăn sâu vào máu và đầu óc họ.

Ở trên là những quan điểm khác nhau của nhiều tầng lớp, chức vụ khác nhau trong chính phủ, quân đội Hoa Kỳ và ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn, dù gián tiếp hay trực tiếp, dù lỡ miệng hay thật thà thừa nhận, dù thiện hay ác, dù là quan điểm phá hoại hay quan điểm xây dựng v.v. cũng đều nói lên bản chất của ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn. Không gì rõ ràng hơn là chính họ nói về họ, chính họ nói về nhau, quân nhân Mỹ nói về bản thân họ và nói về "đồng minh" của họ, quân nhân ngụy nói về bản thân họ và nói về "đồng minh" của họ. Và họ nói những điều đó cả trong cuộc chiến và sau cuộc chiến.

Tóm lại, ngoài những vật chứng về pháp lý làm sáng tỏ sự chính danh, chính nghĩa rõ rệt của Việt Nam như đã trình bày ở những phần trên, thì còn có những nhân chứng nằm trong hàng ngũ Hoa Kỳ, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, giúp làm rõ ràng, minh bạch hơn sự chính danh, chính nghĩa không thể tranh cãi của Việt Nam.

Nhưng xưa nay, cả trong chiến tranh Triều Tiên và sau chiến tranh Triều Tiên, chưa có 1 lãnh đạo Mỹ, sĩ quan Mỹ, người dân Mỹ nào nói gì về Hàn Quốc như vậy. Cũng chưa có 1 tổng thống, lãnh đạo Hàn Quốc nào "tự thú" như các "tổng thống", chóp bu ngụy Sài Gòn đã làm.

9. Khác nhau về tính tiếp nối của cuộc chiến chống ngoại xâm. Mỹ là kẻ hậu thuẫn, giúp đỡ, viện trợ, và chi trả cho thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam từ năm 1954, một cuộc chiến mà tuyệt đại đa số các nhà sử học Pháp, Mỹ và quốc tế, và cả chính giới Pháp thú nhận rằng đó là một cuộc chiến nhằm tái chiếm thuộc địa.

Hơn 80% chiến phí mà quân đội Pháp sử dụng là của Mỹ, phần lớn vũ khí hiện đại mà quân Pháp sử dụng trong cuộc chiến Đông Dương là do Mỹ sản xuất và viện trợ. Như vậy cuộc chiến này là cuộc chiến của "quân đội Pháp - đô la Mỹ". Mỹ ngụy biện rằng mình vì "sợ Cộng sản" nên mới giúp Pháp đánh Việt Nam, sự thật là Mỹ đã bỏ tiền cho Pháp xâm lược Việt Nam, tái chiếm thuộc địa Đông Dương và sau đó ăn chia với nhau lợi ích ở đây.

Như vậy, việc Mỹ thay Pháp nhảy vào Đông Dương là việc dễ hiểu, đơn giản là Mỹ không cam lòng, không chịu thua, không muốn nhả ra miếng mồi béo bở Đông Dương. Việt Nam và cả Đông Dương có tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người rất phong phú, nhân công rẻ và làm lụng cần cù, siêng năng, được việc. Và khống chế được VN thì coi như khống chế được bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á, và toàn bộ khu vực.

Do đó nhiều nhà sử học Việt Nam và quốc tế đã nhận định: Cuộc chiến 1945-1954 là cuộc chiến Việt Nam chống Pháp - Mỹ, và cuộc chiến 1954-1975 là cuộc chiến Việt Nam chống toàn Mỹ, chỉ còn lại một mình Mỹ. Tại bán đảo Triều Tiên, Mỹ không ủng hộ, hỗ trợ, viện trợ cho đế quốc Nhật xâm lược Triều Tiên, trái lại họ cũng chống Nhật. Nhật là kẻ đã đô hộ, nô dịch Triều Tiên gần nửa thế kỷ. Pháp là bọn đã đô hộ, nô dịch Việt Nam gần 1 thế kỷ.

oOo


Khách quan nhìn lại những dữ kiện thực tế lịch sử thì thấy rằng bản chất của chiến tranh Mỹ - Việt và chiến tranh liên Triều là không giống nhau. Bối cảnh lịch sử và các diễn biến lịch sử khách quan trên đất nước Việt Nam và trên bán đảo Triều Tiên cũng rất khác nhau, và những khác biệt đó không hề nhỏ chút nào. Đó là những khác biệt lớn, chứ không hề là tiểu tiết.

Thiếu Long

----------------------------------------------------------------

Xem thêm:

* Nhìn lại sự thật để hòa hợp dân tộc
* Ẩn số Triều Tiên, quá khứ - hiện tại - tương lai