Xưa nay Bắc Triều Tiên là một quốc gia bí ẩn, khép kín với thế giới bên
ngoài, cái gì thần bí, chưa biết thì càng kích thích trí tưởng tượng và
tâm lý hiếu kỳ của thiên hạ, do đó những tin tức, đề tài về Triều Tiên
lâu nay luôn sốt dẻo, hấp dẫn đối với người đọc.
Không phải chỉ
có nhiều người chưa biết về tình hình hiện tại bên trong quốc gia "thần
thần bí bí" này, mà ngay cả lịch sử Triều Tiên, lịch sử chiến tranh
Triều Tiên lâu nay cũng vẫn mơ hồ đối với nhiều người, nhất là các bạn
đọc không phải người Triều Tiên, người Hàn, trong đó có người Việt Nam
chúng ta.
Việt Nam lâu nay luôn nhất quán với quan điểm không
đánh giá, can thiệp vào việc nội bộ của nước khác, các môn học về lịch
sử thế giới, lịch sử châu Á ở Việt Nam đều chỉ ghi nhận chung chung vấn
đề hoặc ghi nhận khách quan một số diễn biến lịch sử quan trọng, chính
yếu của các nước, chứ không nhận xét, đánh giá gì (ngoài đề tài Thế
chiến 2) về nó, cũng không có những hội thảo chuyên sâu cấp nhà nước về
những đề tài lịch sử của nước ngoài. Lịch sử Triều Tiên và cuộc chiến
liên Triều cũng không ngoại lệ, điều này càng tạo ra nhiều mơ hồ hơn về
cuộc chiến Triều Tiên nói riêng và lịch sử Triều Tiên nói chung.
Trong
một số cuộc chiến tranh quy mô lớn có liên quan đến hai phe cộng sản và
tư bản trong lịch sử hiện đại ở khu vực châu Á thì cuộc chiến tranh
Triều Tiên là một cuộc chiến phức tạp về mặt chính trị. Trong khi chiến
tranh chống Pháp, chống Mỹ ở Việt Nam là chiến tranh chống xâm lược nằm
trong một bối cảnh mâu thuẫn quốc tế giữa 2 khối XHCN và TBCN, cũng như
chống các công cụ ngụy quyền mà họ dựng lên sau khi VN đã độc lập và
thống nhất về mặt pháp lý từ năm 1945. Trong khi nội chiến Trung Quốc
rất rõ ràng là nội chiến, hoàn toàn chỉ có 2 quân đội Đảng Cộng sản
Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu và quân đội Trung Hoa Quốc dân
đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu chống nhau, Mỹ chỉ có vai trò viện trợ
hạn chế về vũ khí và tiền bạc, thì chiến tranh Triều Tiên lại rất khó để
phân định bản chất của nó, chính nghĩa của các bên, và mục tiêu của các
bên.
Nếu đề tài Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam,
Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War) đa số các sử gia quốc tế đều
khá đồng nhất về quan điểm thì đề tài Chiến tranh Triều Tiên cho tới
ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có sự đồng thuận, nhất trí
trong giới sử học thế giới.
Do chưa biết rõ, chưa có nhiều thông
tin, nên lâu nay nhiều người chưa có cái nhìn thật sự khách quan về bối
cảnh, tình cảnh bán đảo Triều Tiên, về CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, vai
trò của Trung Quốc và Hoa Kỳ đối với bán đảo này. Phần lớn nhận định của
họ dựa trên cảm tính yêu ghét và lợi ích bản thân.
Những người
đặt trọng tâm vào lịch sử thời chống Pháp, chống Mỹ, khi CHDCND Triều
Tiên đứng về phía ta, thì sẽ thích Triều Tiên, ghét Hàn Quốc (nhất là
những nạn nhân hoặc có người thân, bạn bè là nạn nhân của những tội ác,
thảm sát do gần 20 vạn quân Hàn Quốc gây ra trong lúc tham chiếm giúp Mỹ
xâm lược Việt Nam). Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời sau Giải
phóng và trước Đổi mới, thời kỳ chiến tranh chống Trung Quốc và Khmer
Đỏ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía Trung Quốc và Khmer Đỏ, thì sẽ
ghét Triều Tiên.
Ngày nay lợi ích kinh tế, giáo dục của Việt Nam
gắn nhiều với Hàn Quốc, những bạn có lợi ích gắn liền với Hàn Quốc, hoặc
ưa thích, thần tượng những nhân vật công chúng, ca sĩ, diễn viên, idol,
âm nhạc, phim ảnh của Hàn Quốc thì cũng sẽ thích Hàn Quốc theo cảm tính
tự nhiên. Nói chung, thường ai đó nếu đã ưa Triều Tiên thì sẽ không ưa
Hàn Quốc, nếu ai đã ưa Hàn Quốc thì sẽ không ưa Triều Tiên, nếu đã ưa
bên này thì sẽ không ưa bên kia. Ít ai ưa thích cả hai phe hoặc ghét bỏ
cả hai phía.
Trong bài này tôi xin được viết về đề tài này, trình
bày mọi góc cạnh một cách khách quan nhất, ít cảm tính nhất, nhiều
chiều nhất, trung lập nhất để bạn đọc dễ tham khảo. Và dù ai đã có định
kiến, thành kiến, yêu ghét hai bên như thế nào thì vẫn có thể đọc được
dễ chịu.
Chỉ
mới vài tháng trước, tình hình bán đảo Triều Tiên và vấn đề phi hạt
nhân hóa trong khu vực đang rất căng thẳng giữa Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ
- Hàn Quốc - Nhật Bản, không biết bao giờ sẽ có đàm phán trở lại. Bắc
Triều Tiên vẫn luôn vỗ ngực tuyên bố sẵn sàng đương đầu, tiến hành
"chiến tranh thần thánh" với Mỹ - Hàn - Nhật. Tuy nhiên, sau khi Kim
Chính Ân (Kim Jong-un) kế vị cố chủ tịch Kim Chính Nhật (Kim Jong-il)
thì Bắc Triều Tiên bất ngờ nói chuyện với phía Mỹ và sau đó nhanh chóng
chấp nhận "ngừng chương trình hạt nhân" để đổi lấy viện trợ lương thực
từ Mỹ.
Thật ra hành động lần này của Triều Tiên không khác gì với
với đường lối lãnh đạo truyền thống, mà chỉ là một sự tiếp nối với
những gì đã tồn tại suốt hơn hai thập kỷ qua. Thỏa thuận mà Bình Nhưỡng
chấp nhận vừa rồi chẳng khác gì với thỏa thuận từng rơi vào bế tắc sau
các cuộc tiếp xúc Mỹ - Triều Tiên hồi tháng 10/2011 ở Geneva. Định hướng
cơ bản của Triều Tiên không có sự thay đổi lớn. 240.000 tấn lương thực
là khoản viện trợ không nhỏ, nhưng nó chưa đủ lớn để tạo nên một bước
ngoặt trong cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Triều
Tiên lâu nay bị Mỹ và các đồng minh bao vây cấm vận. Dưới thời tổng
thống tài hoa Bill Clinton, Mỹ lúc này có một chính phủ bồ câu ôn hòa và
một chính sách cởi mở, thông thoáng. Do muốn tập trung vào phục hồi
khủng hoảng kinh tế, vấn đề nội trị, nạn thất nghiệp, phá sản ở Mỹ lúc
đó, nên họ muốn làm hòa với Tiều Tiên để làm dịu tình hình. CHDCND Triều
Tiên cũng cần điều này để thoát cấm vận nên đã đồng ý với Mỹ về một lộ
trình phi hạt nhân hóa, đi kèm với thỏa thuận này là chính sách Ánh
Dương của cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung (Kim Dae-jung, Kim Tê
Chung) với hy vọng thống nhất bằng giải pháp hòa bình.
Từ đó quan
hệ liên Triều nồng ấm hẳn lên, nhưng sau khi tổng thống George W. Bush
và chính phủ diều hâu, hiếu chiến, bảo thủ của ông ta lên lãnh đạo, và
tình hình trong nước Mỹ cơ bản đã ổn, kinh tế và các ngành nghề đã phục
hồi và ổn định, Mỹ liền hướng ngoại và đã lật đổ mọi nỗ lực hòa bình
trong khu vực mà Bill Clinton, Kim Đại Trung và Kim Chính Nhật đã khó
khăn xây dựng. Chính phủ Bush đã bội ước khiến Bắc Triều Tiên nổi giận
và tái khởi động dự án hạt nhân.
Không lâu sau đó, Bình Nhưỡng
tiếp tục đồng ý tạm dừng chương trình hạt nhân, nhưng sau đó lại tiến
hành các vụ phóng tên lửa. Năm 2006, Triều Tiên một lần nữa tuyên bố
ngưng chương trình hạt nhân, nhưng lại tiết lộ một nhà máy làm giàu
uranium vào cuối năm 2010. Phần lớn những lần "xuống nước" của Bình
Nhưỡng đều để đổi lại những khoản viện trợ lương thực và nhiên liệu.
Nhiều
người Mỹ trên khắp các trang mạng, viết ý kiến dưới các bài báo, đều
bức xúc hỏi "tại sao lần nào chúng ta cũng mắc lừa bọn ấy", "đây là lần
thứ mấy rồi bọn chúng làm vậy", "việc này cứ diễn đi diễn lại" v.v. Và
rất nhiều người đặt dấu hỏi vì sao mà ngay tại Mỹ đang có bao nhiêu
người thiếu ăn, thiếu thốn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn mày, nạn nhân
của khủng hoảng kinh tế thị trường, của thiên tai lũ lụt v.v. đang cần
thực phẩm, cần sự giúp đỡ nhân đạo, mà không giúp đồng bào lại đi giúp
nước ngoài, giúp ai không giúp lại đi giúp "bọn North Korea", quốc gia
mà cựu tổng thống Bush đã từng liệt vào "Trục ma quỷ" và đưa vào danh
sách "tài trợ khủng bố".
Thật ra Mỹ không hề ngu khờ gì trong
quyết định này, đây là vấn đề chính trị, vì các mục tiêu chính trị và
lợi ích chính trị của chính Mỹ. Về trước mắt, Mỹ cần làm dịu bớt tình
hình căng thẳng trong khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên, muốn tạm
làm lành với Bắc Triều Tiên để có thể yên tâm tập trung hướng vào Syria
và Iran. Họ không muốn bị vướng víu nhiều vấn đề cùng một lúc, chống
nhiều mũi chọn cùng một lúc. Việc tạm hòa với Triều Tiên thông qua thỏa
thuận này chính là một nước cờ chính trị để tạm ổn định tình hình khu
vực, ổn định bớt một mặt trận, và làm cùn bớt một mũi nhọn chỉa vào
mình.
Về tổng thể và lâu dài, Mỹ muốn trang điểm cho bộ mặt "hiệp
sĩ", "đạo đức", "quân tử" của mình, củng cố "chính nghĩa" và "lẽ phải"
của mình, vì dù sao đi nữa thì hành động viện trợ nhân đạo luôn là hành
động đẹp trước mắt công chúng, đồng thời đánh lạc hướng dư luận khỏi một
sự thật bao nhiêu năm nay là Mỹ đã bao vây, cấm vận Triều Tiên. Mặt
khác, Mỹ muốn thăm dò tình trạng khó khăn và túng thiếu của Triều Tiên.
Mỹ cũng muốn làm một phép thử để dò xét thái độ của chính phủ mới Kim
Chính Ân sau khi kế tục cha mình, xem chính sách và phong cách ngoại
giao, về tổng quát, có thay đổi, khác biệt chút nào không, theo hướng
mạnh mẽ hay ôn hòa, muốn chiến hay hòa...
CHDCND Triều Tiên chấp
nhận mối "giao dịch" này đầu tiên có lẽ là thật sự họ đang túng thiếu.
Dân Triều Tiên do thiên tai bão lụt, do chính sách tự cô lập bế quan tỏa
cảng, tự cung tự cấp của chủ thuyết Juche và do sự cấm vận ráo riết và
khắc nghiệt của Mỹ, làm cho nhân dân Triều Tiên quả thật thiếu thốn
lương thực. Và cũng do muốn tỏ ra có thiện chí, đưa ra bộ mặt tốt trước
hết là đối với nhân dân trong nước (có lương thực), sau là dư luận quốc
tế (ngừng chương trình hạt nhân), đặc biệt đối với một nhà lãnh đạo mới
và còn rất trẻ trung (nếu không nói là lãnh tụ trẻ nhất thế giới hiện
tại), chưa có nhiều công lao, chưa có nhiều kinh lịch, trải nghiệm, thì
đây là quyết định ngoại giao rất có ý nghĩa chính trị. Đây là mối "giao
dịch" hai bên đều có lợi và đầy những tính toán, dụng ý sâu xa, có tác
dụng, hiệu quả chính trị sâu sắc.
Lịch sử phong kiến Triều Tiên
Lịch
sử Cao Ly (Koryo, Korea) kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Sau
sự tan rã của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh
quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam quốc tranh hùng gồm 3 nước Cao Câu Ly
(Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 trước
công nguyên (TCN) đến năm 668 sau công nguyên (SCN). Đến năm 676, Tân La
thống nhất hầu hết bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, bộ hạ của nhà Cao
Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên vào
năm 698. Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan thôn tính; Triều Tiên lại
rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 triều đình Hậu
Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.
Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt
tình trạng phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công
cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế.
Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897)
và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn
tính vào năm 1910.
Năm 1231 - 1273 xảy ra chiến tranh Mông Cổ -
Cao Ly (lúc này Mông Cổ chưa thôn tính xong hết Trung Hoa Đại Lục và
chưa thành lập nhà Nguyên), cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân
Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho bán đảo Triều Tiên. Sau khi vua Cao
Ly giật dây cho phái đầu hàng của các nhóm quan văn Cao Ly hành thích Tể
tướng chủ chiến Thôi Nghị và tiêu diệt gia tộc họ Thôi vốn lâu nay áp
lực triều đình chống giặc Mông Cổ, Cao Ly đã xin hàng, phải ký hiệp ước
đầu hàng, cống nạp vàng bạc châu báu và tài nguyên, trẻ em, nữ nô, và
thợ thủ công để làm nô lệ và nô bộc cho đế quốc Mông Cổ, phải cho các
con cháu quý tộc, bao gồm các công chúa, hoàng tử sang Mông Cổ làm con
tin, và đồng thời trở thành một chư hầu, phiên thuộc của Mông Cổ trong
gần 1 thế kỷ sau.
Lịch sử cận đại và hiện đại Triều Tiên
Triều
Tiên dưới ách cai trị của đế quốc Nhật từ năm 1910. Người Nhật gọi
Triều Tiên là ngoại địa và Nhật Bản là nội địa, có nhiệm vụ "khai phóng"
Triều Tiên trong chính sách "Phồn vinh châu Á". Chính sách cai trị của
Nhật được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 1910 đến
1919 cốt "thuần hóa" nhân dân Triều Tiên, bình định bán đảo Triều Tiên.
Giai đoạn hai từ năm 1920 đến 1931 là giai đoạn dung hòa, mị dân, ôn tồn
phủ dụ, nới rộng sự kiểm soát, phát triển văn hóa, giáo dục. Giai đoạn
ba, từ 1931 đến 1945 phát triển kỹ nghệ và Nhật hóa.
Trong thời
kỳ bị đế quốc Nhật Bản đô hộ, người Triều Tiên vùng lên chống lại rất
nhiều lần và hình thành nhiều thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên,
không có phong trào nào, lực lượng nào gây ấn tượng, thậm chí họ không
có lực lượng vũ trang và vì vậy không thể hoạt động dưới sự bố ráp,
ruồng bố, đàn áp của quân phiệt Nhật, khiến họ đành phải hoạt động ở
Trung Quốc và hải ngoại. Đến năm 1939 tất cả các thế lực chống Nhật đều
bị tận diệt hoặc phải lưu vong ngoại quốc, không còn thế lực nào hoạt
động trong nước.
Mãi về sau mới có 2 lực lượng quân sự ra đời;
một là Quân Tình nguyện Triều Tiên, do hai tướng Kim Tu-bong (Kim Đấu
Phụng) và Mu Chong (sau này bị Kim Nhật Thành thanh trừng) thành lập ở
"thánh địa cộng sản" Diên An, Trung Quốc vào năm 1939, sau này tướng Kim
Nhật Thành vào lãnh đạo. Đội quân này chỉ có vài trăm du kích cộng sản
nhưng đến năm 1945 đã phát triển lên 1000 quân.
Hai là Quân Giải
phóng Triều Tiên (còn được gọi là Hàn Quốc Quang phục quân), do Kim Gu
(Kim Cửu) thành lập ở Trùng Khánh, TQ vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, dưới
sự thống lĩnh của các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk (người hùng
của trận chiến 6 ngày Qingshanli đánh Nhật), tuyên chiến với phát xít
Đức và Nhật. Sau này tướng Kim Won-bong dẫn Nghĩa Liệt Đoàn sát nhập vào
Quân Giải phóng Triều Tiên, lực lượng lên được mấy trăm tay súng.
(Quân Giải phóng Triều Tiên (Hàn Quốc Quang phục quân))
Sau
khi phe Trục thua, Kim Cửu cố gắng kéo quân về nước tham gia giải phóng
và tranh quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân Nhật,
nhưng không kịp. Sau khi Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo Triều
Tiên, Quân Giải phóng Triều Tiên chia rẽ nội bộ sâu sắc và đã phân rã,
các tướng lĩnh, lãnh đạo người thì theo tiến sĩ Lý Thừa Vãn, kẻ thì gia
nhập vào Quân Tình nguyện Triều Tiên của Kim Nhật Thành.
Tiến sĩ
Lý Thừa Vãn ở Nam phần Triều Tiên ra sức chiêu hiền đãi sĩ, thu hút hiền
tài, Các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk theo Lý Thừa Vãn và được
trọng dụng, ưu đãi. Lee Bum-suk sau này là Thủ tướng trong Chính phủ đầu
tiên của nước Đại Hàn Dân Quốc. Kim Cửu cũng vào hoạt động chính trị ở
Nam Triều Tiên, nhưng không theo Lý Thừa Vãn mà là tranh quyền với ông
ta, công khai phê phán, chỉ trích ông ta nhiều lần.
Khi viễn cảnh
và triển vọng một Triều Tiên độc lập khỏi sự đô hộ, nô dịch của Nhật
Bản đã hình thành, thì Kim Cửu đã dẫn một phái đoàn gồm những nhà hoạt
động có tên tuổi lặn lội đến Bình Nhưỡng xin gặp Kim Nhật Thành để bàn
việc thống nhất bán đảo Triều Tiên, thuyết phục Kim khoan việc tính
chuyện lập quốc ở miền Bắc, không ngờ bị Kim Nhật Thành bác bỏ thẳng
thừng và hai bên to tiếng cãi nhau một trận. Kim Cửu ngao ngán trở về
miền Nam. Sau khi thất bại trong nhiệm vụ du thuyết trở về, Kim Cửu bị
Lý Thừa Vãn lợi dụng thêm một lần nữa trong cuộc bầu cử. Một năm sau,
năm 1949, Lý Thừa Vãn cho người ám sát Kim Cửu.
Kim Cửu là một
nhà dân tộc chủ nghĩa thật thà, trong sáng, và ngày nay vẫn được Hàn
Quốc ca tụng, xây tượng để vinh danh. Bắc Triều Tiên tuy coi ông là một
người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhưng
cũng rất tôn trọng ông.
Tướng Kim Won-bong, phó tư lệnh Quân
Giải phóng Triều Tiên, không theo Kim Cửu về Nam, mà ở lại theo Kim Nhật
Thành. Tuy nhiên, ông bị Kim Nhật Thành nghi oan và thanh trừng vào năm
1958, sau đó ông tự sát.
Sau Thế chiến 2, Nhật Bản đầu hàng Đồng
Minh vào năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào giải phóng bán đảo Triều
Tiên, giải giới quân phiệt Nhật, chiếm đóng tạm thời, và bán đảo Triều
Tiên bị chia đôi thành 2 quốc gia độc lập với ranh giới ở vĩ tuyến 38.
Nam
Triều Tiên do tiến sĩ Lý Thừa Vãn lãnh đạo với sự hậu thuẫn của quân
đội Hoa Kỳ, bầu Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp ngày
17 tháng 7 năm 1948, ngày 15 tháng 8 năm 1948 tuyên bố lập quốc, thành
lập nước Đại Hàn Dân Quốc thân Mỹ và theo chủ nghĩa tư bản.
Bắc
Triều Tiên do Kim Nhật Thành lãnh đạo với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên
Xô, gần 1 tháng sau khi Đại Hàn Dân Quốc đã tuyên bố độc lập và thành
lập quốc gia, thì họ cũng tuyên bố lập quốc vào ngày 9 tháng 9 năm 1948,
thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thân Xô - Trung và
theo chủ nghĩa Kim Nhật Thành và thuyết Chủ thể (Juche), một học thuyết
do Kim Nhật Thành và các lý luận gia của CHDCND Triều Tiên nghiên cứu và
phát triển, mang nhiều yếu tố của tư tưởng truyền thống Triều Tiên và
tinh thần tự lực cánh sinh.
Tên gọi "Triều Tiên" là lấy từ thời
đại Cổ Triều Tiên tồn tại nhiều ngàn năm trong lịch sử bán đảo này,
trong đó có các nước Cơ Tử Triều Tiên, Toán Tử Triều Tiên, Đàn Quân
Triều Tiên, Vương Kiếm Triều Tiên, Vệ Mãn Triều Tiên, vẫn còn được ghi
chép sơ lược trong cuốn "Tam Quốc Di Sự". Danh từ "Triều Tiên" còn được
dùng cho triều đại Triều Tiên, vốn tồn tại hơn 200 năm, là triều đại
phong kiến cuối cùng của dân tộc này trước khi bị đế quốc Nhật Bản xâm
lược.
Còn Đại Hàn Dân Quốc, viết gọn là Hàn Quốc, là một cải biên
từ danh từ của 3 bộ lạc "Tam Hàn" và "Đại Hàn Đế Quốc" của nhà Triều
Tiên, và quốc hiệu này chỉ tồn tại vỏn vẹn có 13 năm là triều đình Triều
Tiên sụp đổ, thất thủ trước quân xâm lược Nhật.
Những năm cuối
cùng của triều đại Triều Tiên dưới quốc hiệu Đại Hàn thì đã rất suy đồi,
suy yếu, triều cương hủ bại, vua quan chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc
triều chính, dung túng quan binh nhũng nhiễu bá tánh, nhân dân đói khổ,
lầm than, than oán, là một trong những triều vua tệ nhất trong lịch sử
dân tộc Cao Ly. Nên khi nước Nhật đem quân tiến vào chiếm lấy Triều Tiên
nhanh chóng mà không khó nhọc gì. Vì vậy việc lực lượng Lý Thừa Vãn lập
quốc trước mà lại lấy Đại Hàn làm quốc hiệu thì khá là khó hiểu.
Quốc
kỳ Đại Hàn Dân Quốc là lá cờ Âm Dương (Yin Yang) với bát quái (8 quẻ)
bao quanh. Theo lịch sử Triều Tiên, đây thật ra là lá cờ của Quân Giải
phóng Triều Tiên thành lập năm 1941 cải biên từ lá cờ triều đình của
vương quốc Tân La, một triều đình hùng mạnh và từng có công thống nhất
bán đảo Triều Tiên, nhưng cũng bị nhiều sử gia Triều - Hàn xem là bọn
cõng rắn cắn gà, rước voi giày mồ, vương triều này là đồ đệ trung thành
của triều Đường ở Trung Quốc, cùng với quân Đường đánh nhau với anh em
trong nhà trong các thời Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam
Quốc, đánh Bột Hải, đánh Cao Câu Ly (tiền thân của đế chế Cao Ly sau
này)... Suốt thời kỳ cầm quyền và cả thời Tân La thống nhất sau này,
triều Tân La thường là đồng minh trung thành của Trung Hoa, chuyên cùng
với quân Tàu đi thảo phạt các thế lực khởi nghĩa, nổi dậy trong nước.
Hàn
Quốc chống cộng mà lại dùng một lá quốc kỳ đậm chất Trung Hoa như vậy
là vì lúc đó là năm 1948, Quốc dân đảng Trung Hoa còn mạnh và vẫn có ưu
thế trên chiến trường chống cộng sản. Có lẽ vì vậy tập đoàn Lý Thừa Vãn
muốn tỏ ý thân thiện và thần phục Trung Hoa. Thời đó nhiều người trong
phe tư bản vẫn hy vọng rằng Tưởng trước sau gì cũng sẽ thắng Mao, thống
nhất đại lục Trung Hoa.
(Biểu tượng của tư tưởng Chủ thể)
Mặc
dù tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx -
Engels - Lenin nhưng nhiều học giả phương Tây nhận xét rằng CHDCND
Triều Tiên theo chủ nghĩa Stalin và nặng tính chủ nghĩa Mao Trạch Đông
hơn là chủ nghĩa Marx thật sự. Quan điểm chính thống của Việt Nam trong
những năm tháng chống Trung Quốc (1979-1992) cũng không xem Bắc Triều
Tiên là một quốc gia theo chủ nghĩa Marx-Lenin chân chính. Năm 2003,
Triều Tiên đã chỉnh sửa và bổ sung Hiến pháp, và dùng thuật ngữ Chủ thể
thay vào tất cả các thuật ngữ cộng sản trong Hiến pháp, hoàn toàn theo
đuổi một con đường riêng với chủ nghĩa Juche của Kim Nhật Thành và chính
sách Tiên quân, quân đội hàng đầu (선군 정책) của Kim Chính Nhật.
Hai
bên đã đối đầu trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950,
sau đó quân đội hai bên tan rã, đại quân Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc
do Mỹ cầm đầu nhảy vào. Sau 3 năm chiến tranh giằng co, đẫm máu, bán đảo
Triều Tiên vẫn duy trì tình trạng chiến tranh và chia thành hai quốc
gia cho đến ngày nay.
Về bản chất của chiến tranh liên Triều và
tình hình ngày nay thì cũng chẳng khác nhiều với thời kỳ Tiền Tam Quốc,
Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, và Nam Bắc Triều bên bán đảo Triều
Tiên. Với các nước, các thế lực khác nhau thống trị bán đảo như Bắc Phù
Dư, Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Bột Hải, Hậu Cao Câu Ly,
Hậu Bách Tế v.v. Bên Cao Ly chia rẽ, phân hóa, nội chiến, nội loạn, đánh
giết lẫn nhau cũng gần như phong kiến Trung Hoa. Thời cận đại do những
diễn biến lịch sử, các đặc điểm lịch sử khách quan, nên bán đảo này biến
thành 2 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn
Dân Quốc ở phía Nam, âu cũng là nối tiếp truyền thống xa xưa và lịch sử
tái hiện.
(Liên Xô giải phóng Bắc Triều Tiên)
(Mỹ giải phóng Nam Triều Tiên)
Ngày
8 tháng 9 năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến quân vào bán đảo Triều Tiên
giải giáp quân đội Nhật. Liên Xô đã rút quân ra khỏi Bắc Triều Tiên vào
năm 1948, trong khi Mỹ vẫn kéo dài việc đóng quân tại Nam Triều Tiên
trong những năm sau đó.
Tại Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim
Nhật Thành, một lãnh tụ quân đội chống Nhật của Triều Tiên, cùng với Hội
Phục hưng Tổ quốc và Quân Tình nguyện Triều Tiên kết hợp với các lực
lượng ái quốc, kháng Nhật, thân cộng, thiên tả khác ở miền Bắc Triều
Tiên và Trung Quốc, lập ra Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên, sau
đó thành lập Đảng Lao động Bắc Triều Tiên, sau sát nhập Đảng Nhân dân
Mới vào rồi đổi tên thành Đảng Lao động Triều Tiên. Tiến hành thanh
trừng Đảng Cộng sản Triều Tiên.
Đảng Cộng sản Triều Tiên(조선공산당,
Triều Cộng) là một đảng chính trị theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế
Cộng sản thành lập tại Triều Tiên vào năm 1925 dưới thời bị Nhật đô hộ.
Thập niên 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra tận các
khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Do bị
Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế
mà có đến 4 Đảng Cộng sản Triều Tiên cùng tên. Sau khi Đảng Cộng sản
Triều Tiên thứ tư bị Quốc tế Cộng sản xóa sổ vào năm 1929 vì cho là chủ
nghĩa dân tộc cải lương, chủ nghĩa sô-vanh, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn
tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục.
Sau
Chiến tranh Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản Triều Tiên được một số chí
sĩ tái lập vào tháng 9 năm 1945. Nó chính là một trong những tiền thân
của Đảng Lao động Triều Tiên. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động
Triều Tiên, Kim Nhật Thành không có quan hệ gì với Đảng Cộng sản Triều
Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân,
vì thế Kim và Đảng Lao động Triều Tiên trước khi lập quốc đã phải thanh
toán đối thủ chính trị của phe mình, dùng lực lượng quân sự có sẵn để
tiến hành đánh dẹp, Đảng Cộng sản Triều Tiên không có quân đội trong
tay, lại có thực lực yếu ớt, nên đã bị dẹp dễ dàng và nhanh gọn, không
để lại bao nhiêu hậu quả chính trị. Từ đó quan điểm chính thống của
CHDCND Triều Tiên luôn có những đánh giá mang tính phủ nhận đối với Đảng
Cộng sản Triều Tiên, sợ uy tín và những công lao của Đảng Cộng sản
Triều Tiên gây ảnh hưởng tiêu cực, làm lu mờ đi vai trò và tầm ảnh hưởng
của Đảng Lao động Triều Tiên.
("Tiểu anh hùng" Kim Nhật Thành lúc thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc năm 1926)
Gia
tộc họ Kim là một gia đình yêu nước, cả nhà đều chống Nhật. Nhà ngoại
của Kim Nhật Thành đã hoạt động tuyên truyền chống Nhật từ những năm đầu
kháng chiến, gia đình phải vào đạo Cơ Đốc Tin Lành để tránh tai mắt của
quân xâm lược, ông ngoại của Kim Nhật Thành cũng phải hóa thân làm một
mục sư. Đến năm 1920, trước tình hình bố ráp ngày càng căng thẳng của
toàn quyền Nhật, gia đình này vượt sông Áp Lục và tỵ nạn chính trị ở Mãn
Châu, Trung Quốc.
Năm 14 tuổi, Kim Nhật Thành đã truyền bá bài
hát “Ái Quốc Ca” (sau này là quốc ca Triều Tiên) để tuyên truyền lòng
yêu nước trong cộng đồng lưu vong Triều Tiên, sau đó ông cùng một số
kiều dân tỵ nạn Triều Tiên đồng trang lứa ở Mãn Châu thành lập Liên minh
Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc vào năm 1926 để phản đối chính sách bành
trướng của các siêu cường trên thế giới thời ấy. Tuy nhiên, đó là một tổ
chức non yếu, mang tính nghiệp dư và thiếu tính chuyên nghiệp, do những
thành viên trong nhóm này còn quá trẻ, nhiệt tình có thừa nhưng trình
độ chính trị chưa đủ.
Năm 17 tuổi, Kim Nhật Thành với những tiến
bộ nhất định về nhận thức và kiến thức chính trị, ông đã gia nhập Hội
Thanh niên Cộng sản Nam Mãn Châu và bị phát xít Nhật tống giam vào năm
1929. Sau khi cùng với các đồng chí vượt ngục thành công, ông tham gia
các lực lượng du kích chống Nhật ở vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Vào năm
1935, ông gia nhập Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, một nhóm
du kích chống Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có cùng một mục
tiêu chiến đấu chống quân phiệt Nhật nói riêng và chủ nghĩa phát xít
nói chung. Vừa tham gia vào lực lượng này thì Kim Nhật Thành đã chứng tỏ
được bản lĩnh chính trị xuất sắc so với lứa tuổi, trẻ tuổi như thế
nhưng ông đã được chỉ định làm chính trị viên cho chi đội thứ ba của sư
đoàn 2, với khoảng 160 chiến sĩ, ông là chính trị viên trẻ tuổi nhất
trong quân đội lúc đó.
Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước Moscow ký
kết với 4 nước đồng minh là Mỹ, Trung Quốc, Anh, và Pháp vào tháng 12,
1945. Họ rút hết quân về nước vào năm 1948 sau khi các nhóm Triều Tiên
kháng Nhật tự lập nên đảng cầm quyền của họ ở Bắc Triều Tiên, và dân
chúng phía Bắc Triều Tiên đã tôn vị tướng trẻ của họ lên làm lãnh tụ tối
cao. Đó là do Kim Nhật Thành đã đấu tranh chống Nhật từ nhỏ, ông là
thần tượng của nhiều người dân Bắc Triều Tiên, và là một “huyền thoại
quân sự” trong tâm trí người dân biên giới phía Bắc, nơi mà Kim Nhật
Thành đã nhiều lần chỉ huy một đạo quân chỉ có vài trăm người mà đánh
thắng nhiều lực lượng thiện chiến của quân Quan Đông Nhật, và là vị
tướng trẻ duy nhất lúc đó đánh chiếm được những đồn lính của Nhật quanh
vùng biên giới.
(Kim
Nhật Thành đọc diễn văn trong cuộc tuần hành quy mô ở Bình Nhưỡng tháng
10/1945, chào mừng ông trở về sau cuộc chiến chống phát xít Nhật)
(Kim Nhật Thành năm 1946)
Trong
khi ở phía Bắc bán đảo, Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước ký với Mỹ, rút
hết Hồng quân về nước, thì ngược lại ở phía Nam bán đảo, Mỹ không tuân
thủ những điều đã ký kết tại Hội nghị Moscow, âm mưu chia rẽ bán đảo
Triều Tiên. Người Mỹ vẫn duy trì thực binh ở Nam Triều Tiên và ủng hộ
tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một nhà chính trị lão luyện, cao tuổi, đã hoạt động
chống Nhật lâu năm theo đường lối ôn hòa, cải lương, với các biện pháp
chính trị, tuyên truyền, biểu tình, đấu tranh dân quyền, khai thông dân
trí như Gandhi ở Ấn Độ và Phan Châu Trinh ở Việt Nam, và lực lượng của
ông.
Với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, lực lượng Lý Thừa Vãn tiến hành
bầu cử Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp vào ngày 17
tháng 7 năm 1948. Sau đó bầu ra chính phủ theo mô hình chính trị tư bản
phương Tây, tuyên bố lập quốc vào ngày 15 tháng 8 năm 1948, thành lập
nước Đại Hàn Dân Quốc.
Trong cuộc bầu cử này "cáo già" Lý Thừa
Vãn đã dùng thủ đoạn chính trị đưa Kim Cửu vào danh sách ứng cử viên mà
Kim Cửu không hề biết trước, nhưng lại sắp xếp hậu trường giữ cho Kim
Cửu không thể thắng. Sau đó Kim Cửu khẳng định mình không hề tham gia
vận động tranh cử và không biết gì về việc này, ông ta khẳng định đây là
tiểu xảo của Lý Thừa Vãn nhằm mục đích phá hoại hình ảnh của ông, lúc
đó vốn đang là đối thủ chính trị bất đắc dĩ của Lý và thường chỉ trích
tính cách độc tài, độc đoán của ông ta. Kim Cửu cũng khẳng định ông chưa
bao giờ có ý định tham gia tranh cử, vì ông ta kiên quyết chống lại sự
phân chia lãnh thổ và chia rẽ dân tộc. Ngoài mưu đồ trên, Lý Thừa Vãn
còn muốn lợi dụng tên tuổi, biểu tượng, "thương hiệu" của Kim Cửu để
tăng cường trang trí cho cuộc bầu cử, tăng cường trang điểm cho mặt mũi
của chính ông ta, rằng ta đây thắng được Kim Cửu.
(Phe Lý Thừa Vãn tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc trước đông đảo quần chúng Nam Triều Tiên)
("Cáo già" Lý Thừa Vãn)
Ngay
sau đó, Kim Nhật Thành và Đảng Lao động liền tức tốc tiến hành bầu cử
Quốc hội ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9, tháng 9, năm 1948, Quốc hội Bắc Triều
Tiên họp, thông qua Hiến pháp, bầu ra chính phủ và tuyên bố thành lập
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
(Chủ tịch Kim Nhật Thành nói chuyện với đông đảo người dân Bình Nhưỡng, tháng 6/1957)
Chiến tranh Triều Tiên
Trong
thời gian đầu năm 1950, quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc tuần
tra quanh khu vực vĩ tuyến 38 đã liên tục nảy sinh những xung đột quân
sự, lúc thì quân Triều Tiên vượt ranh giới xâm phạm trước, khi thì quân
Hàn Quốc nổ súng trước, vượt làn ranh vào trong lãnh thổ của Triều Tiên
và bắn phá vào người Triều Tiên, gây ra nhiều cuộc chạm súng nảy lửa
quanh vĩ tuyến 38.
Năm 1950, Kim Nhật Thành bị Trung Quốc từ chối
viện trợ và giúp đỡ Triều Tiên tiến hành những biện pháp quân sự để
thống nhất Tổ quốc. Trung Quốc không muốn các quốc gia láng giềng của
mình, trong đó có Triều Tiên, đủ mạnh mà chỉ muốn giữ cho họ đủ sống
trong thoi thóp và vật vờ, phải dựa dẫm vào Trung Quốc, đồng thời muốn
sử dụng họ làm một trái độn, một vành đai an ninh, phòng tuyến an toàn,
làm một lá chắn để che chở cho Trung Quốc khỏi chủ nghĩa bành trướng
quốc tế của Mỹ và phương Tây, bảo vệ an ninh quốc phòng cho Trung Quốc,
giữ cho biên giới Trung Quốc được ổn định và giữ một khoảng cách an toàn
đối với các thế lực tư bản Mỹ - Tây.
Do không được Trung Quốc
tán thành và ủng hộ, Kim Nhật Thành phải hướng về Liên Xô cầu viện. Báo
Hồng Kông “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” ngày 25/7/2010 dẫn các hồ sơ lịch
sử mới được bạch hóa ở Trung Quốc cho thấy ban đầu, chủ tịch Mao Trạch
Đông đã phản đối quyết liệt kế hoạch tấn công Hàn Quốc của Bình Nhưỡng
cho tới 6 tuần trước khi nổ ra cuộc Nam tiến, và Mao Trạch Đông chỉ thay
đổi chính sách sau ý kiến của Stalin. Sau khi Stalin yêu cầu hỗ trợ,
Mao Trạch Đông đã thay đổi quyết định và trở thành người ủng hộ cuộc
chiến này.
Theo cuốn sách “Mao Trạch Đông, Stalin và Chiến tranh
Triều Tiên” của tác giả Thẩm Chí Hoa dựa trên các tài liệu chính thức,
Trung Quốc cũng không được chia sẻ thông tin về kế hoạch tấn công Hàn
Quốc của CHDCND Triều Tiên. Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại
sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng rằng ông ta có kế hoạch giải phóng Tổ quốc.
Được tin đó, Stalin gửi một bức điện với nội dung ủng hộ kế hoạch, nhưng
không nói gì với Mao Trạch Đông, lúc này đang thăm Điện Cẩm Linh.
Stalin cũng đồng ý viện trợ trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã
cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng
quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với
Stalin rằng ông ta có thể bình định xong Hàn Quốc trước khi Liên Hiệp
Quốc, người Mỹ, và thế giới phương Tây có thời gian cũng như ý định can
thiệp.
Mục đích của Stalin là muốn dùng các cảng không bao giờ bị
đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc
mất cảng Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong
tháng 8/1945. Hồi tháng 3/1949, Moscow và Bình Nhưỡng đã đồng ý xây dựng
một tuyến đường sắt nối liền hai nước và vận chuyển hàng hóa qua hai
cảng này. Phải đến cuối tháng 4/1950, Kim Nhật Thành mới cử một đặc phái
viên hàng đầu đến Bắc Kinh để thông báo cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc
về kế hoạch tấn công Hàn Quốc. Mao phản đối mạnh mẽ cuộc chiến, nói
rằng ông không thể giúp gì được, phải lo duy trì ổn định tình hình trong
nước của Trung Quốc trước tiên, các đồng chí không nên đánh Hàn Quốc,
mà chỉ nên "trường kỳ kháng chiến", "trường kỳ mai phục", "việc thống
nhất là việc lâu dài, việc tương lai sau này", "cứ để con cháu chúng ta
thống nhất, đó là việc mai sau, là việc của các thế hệ sau". Tuy nhiên,
Mao cũng chấp thuận cho hàng ngàn người Triều Tiên phục vụ trong hàng
ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở về phục vụ trong quân đội
của Kim Nhật Thành.
Theo đề nghị của Stalin, đích thân Kim Nhật
Thành đến Bắc Kinh ngày 13/5/1950 để cố thuyết phục Mao Trạch Đông. Cuộc
mật đàm gay gắt kéo dài đến tận đêm mà hai bên vẫn không đạt được thỏa
thuận nào. Ngày sau đó, Stalin đã gửi cho Mao Trạch Đông một bức điện
nói rằng vì những thay đổi trong trật tự quốc tế, giới lãnh đạo Liên Xô
đã thông qua kế hoạch của Bắc Triều Tiên: “Vấn đề này phải được các đồng
chí Triều Tiên và Trung Quốc giải quyết. Các đồng chí Triều Tiên sẽ đưa
cho ông một thông báo chi tiết về các cuộc trao đổi của họ với chúng
tôi”.
Kim Nhật Thành phát động cuộc tấn công vào ngày 25/6/1950
và đã thành công lớn. Nhưng sang tháng 7, Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp
Quốc nhảy vào cuộc chiến và đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên. Kim
Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến sức mạnh tàn phá hủy diệt ghê gớm của
không quân Mỹ mà Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Nhà
lãnh đạo này gửi một bức điện tới Stalin, xin được hỗ trợ quân sự mà nếu
không từ Liên Xô được thì cũng từ các quốc gia đồng minh khác của Liên
Xô.
Không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ,
Stalin gửi một bức điện cho Mao Trạch Đông: “Theo tình hình hiện nay,
nếu Trung Quốc có thể hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đoàn
sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến 38. Vai trò của họ sẽ là quân tình
nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của Trung Quốc”. Ngày
1/10/1950, Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc họp khẩn Ban Bí thư Trung
ương Đảng, bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. “Các ý kiến chia
rẽ, nhưng với sự ủng hộ của Chu Ân Lai, quyết định cử quân của Mao Trạch
Đông đã thắng”. Được chọn làm chỉ huy quân Chí nguyện Trung Quốc tham
gia cuộc chiến “Kháng Mỹ viện Triều”, Bành Đức Hoài tham dự một cuộc họp
khác tại Trung Nam Hải vào ngày 4/10/1950. Viên tướng này kể lại: “Bầu
không khí rất không bình thường. Sự khác biệt trong các ý kiến là rất
lớn. Tôi không thể đưa ra một ý kiến nào”. Ngày 19/10/1950, quân Chí
nguyện vượt sông Áp Lục và ngày 25/10 cùng năm, họ đụng độ với các lực
lượng LHQ do Mỹ đứng đầu.
Nhà báo Kim Chung, biên tập viên của tờ
“Khai phóng” (một tạp chí Hồng Kông chuyên về chính trị Trung Quốc)
cũng cho biết: “Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc chiến. Ông ta nói rằng chỉ
1,5 người ủng hộ, bao gồm ông ta và Chu Ân Lai ủng hộ một nửa. Tất cả
các nhà lãnh đạo khách đều phản đối. Họ cho rằng Trung Quốc vừa kết thúc
một cuộc nội chiến dài và đang chịu cảnh bị tàn phá. Giờ là lúc cho
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông quyết định tham chiến để
chiều lòng Stalin, đại ca của phong trào Cộng sản toàn cầu và để bảo đảm
sự hỗ trợ của Liên Xô cho Trung Quốc”.
Quân đội Trung Quốc tham
gia chiến tranh Triều Tiên được gọi là “quân Chí nguyện” để tránh một
cuộc chiến chính thức với Mỹ. Họ đã có những thành công đáng kể trước
đối thủ được trang bị tốt nhất và có công nghệ cao nhất thế giới. Đến
Giáng sinh năm 1950, quân Trung Quốc đã có thể chiếm lại phần lớn vùng
lãnh thổ mà quân đội Bắc Triều Tiên bị đẩy lùi trước đó. Quân đội Trung
Quốc đánh chiếm Bình Nhưỡng từ tay Mỹ vào ngày 4/1/1951 nhưng bị đánh
bật một lần nữa trong tháng 3. Đến tháng 6, hai bên rơi vào thế giằng co
dọc vĩ tuyến 38. Phải mất 2 năm để đạt được thỏa thuận ngừng bắn.
Để
chống lại sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ, Stalin buộc phải gửi hàng
trăm máy bay chiến đấu MiG. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công
Trung Quốc hoặc dùng phi công của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói
tiếng Trung để vẫn giả vờ rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột
trực tiếp với Mỹ.
Nhà sử học Trần Lâm (Trung Quốc) cho rằng động
cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công
nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong
một cuộc chiến yêu nước. Nhà sử học này cũng bình luận: “Kim Nhật Thành
đã rất ngạo mạn, tự tin vào sự siêu việt của các trang thiết bị do Liên
Xô chế tạo và cho rằng có thể thắng nhanh chóng trước khi bên ngoài can
thiệp. Ông ta đã mắc một sai lầm lớn, cũng như tổng tư lệnh Mỹ MacArthur
khi cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ nhập cuộc. Cả hai đều quá kiêu
căng”.
Nhà bình luận Kim Chung thì cho rằng sự can thiệp của Mỹ
đã cứu không chỉ Hàn Quốc mà cả Đài Loan: Nếu không có cuộc chiến, Mao
Trạch Đông đã dồn sức giải phóng Đài Loan, thống nhất 1 nước Trung Quốc,
dùng các làn sóng người làm chiến thuật. Hàng nghìn người sẽ thiệt
mạng, nhưng ông ta sẽ thành công. Chiến tranh Triều Tiên đã ngăn cản
được điều đó.
Sau khi được Liên Xô và Trung Quốc đồng thuận hậu
thuẫn, Kim Nhật Thành và quân đội Triều Tiên tiến hành cuộc "Chiến tranh
Giải phóng Tổ quốc", nhằm mục đích thống nhất bán đảo Triều Tiên, hợp
nhất hai quốc gia.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới quyết định
tiến hành giải phóng Nam Triều Tiên là do nhiều chiến dịch khủng bố
"Sát Cộng", "Diệt Cộng", "Thánh chiến phản Cộng" vô cùng tàn ác mà chính
phủ Lý Thừa Vãn đã tiến hành ở miền Nam Triều Tiên trong suốt giai đoạn
1947 – 1950, mà đỉnh cao là cuộc chôn sống tập thể gần 400 người, trong
đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, thậm chí cả những người đàn bà đang
mang thai. Những cuộc thảm sát ở miền Nam Triều Tiên lâu nay bị bưng
bít rất kín và chỉ được đưa ra ánh sáng từ năm 2001 đến nay, một số
phóng viên có lương tâm trong đài CNN đã đi tiên phong trong việc này.
(Tranh vẽ cuộc đại thảm sát Triều Tiên (1951) của họa sĩ nổi tiếng Picasso. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đã họa lại cuộc thảm sát ghê tởm đó.)
Khả
năng chính trị hạn chế của Triều Tiên, cộng với ngoại giao kém, tuyên
truyền kém, uy tín, tầm vóc của chủ tịch Kim Nhật Thành ở miền Nam lại
không được như ở miền Bắc, không huy động nổi một cuộc chiến tranh nhân
dân ở miền Nam, và sự thiếu quyết tâm và thờ ơ với chính trị của người
dân Nam Triều Tiên, khiến cho những phong trào đấu tranh, chống đối ở
phía Nam Triều Tiên bị đàn áp và dẹp bỏ dễ dàng. Lực lượng của Bắc Triều
Tiên cũng không có cách nào mon men, len lỏi, trà trộn vào được.
Trước
sự thất thế trong đấu tranh chính trị và võ lực ở Nam Triều Tiên, Kim
Nhật Thành đã quyết định tấn công quy mô, tổng lực, toàn diện, dùng trận
địa chiến rộng lớn, triệt để, nhằm thống nhất bán đảo Triều Tiên trước
khi quân đội Hàn Quốc trở nên đủ mạnh và chế độ Lý Thừa Vãn trở nên vững
nền. Triều Tiên muốn tấn công và chiến thắng thật nhanh trước khi các
thế lực bên ngoài đổ quân vào bán đảo.
Cuộc tấn công của quân đội
Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950, họ đã
vượt vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội
vào phía trước. Được trang bị tốt với gần 15 vạn quân và 240 xe tăng
bao gồm 150 xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo, quân đội Triều Tiên bắt đầu
cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và
70 máy bay ném bom. Riêng hải quân của họ thì trang bị rất kém so với
hải quân Mỹ gần đó. Điểm yếu trầm trọng nhất của Triều Tiên là thiếu một
hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam
khi quân đội của họ càng tiến sâu vào lãnh thổ địch. Lực lượng tự vệ của
Hàn Quốc yếu hơn rất nhiều, cả về tinh thần chiến đấu lẫn khả năng tác
chiến nếu đem so với quân thiện chiến Triều Tiên, do đa số lính Hàn Quốc
đều là tân binh mới nhập ngũ, quân đội vừa mới được chính quyền mới xây
dựng không bao lâu. Trong khi quân đội Triều Tiên là một quân đội nhà
nghề đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trực diện với quân Quan Đông của
Nhật, với những chiến binh từng phục vụ trong hàng ngũ Tân Tứ quân, Bát
Lộ quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tham chiến chống lại
phát xít Nhật, quân Tưởng và quân phiệt, với những sĩ quan cao cấp
chuyên nghiệp từng phục vụ trong Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc và
Hồng quân Liên Xô.
Quân đội Hàn Quốc có khoảng 5 vạn nhưng lúc
đó chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ mà Mỹ đã bỏ không dùng từ sau Thế chiến
2. Quân Hàn Quốc không có xe tăng và rất thiếu xe thiết giáp và pháo
binh, họ cũng không có máy bay tiêm kích và vũ khí chống tăng.
Cuộc
tấn công được Kim Nhật Thành và đồng sự hoạch định tốt với khoảng 15
vạn quân tinh nhuệ và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất
ngờ. Triều Tiên tiến quân theo chiến lược tốc chiến tốc thắng, đánh mau
đánh mạnh, với khí thế "sấm sét", đã tấn công bất thần vào một số điểm
trọng yếu như Kaesong, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.
Trong mấy
ngày đầu giao chiến, lực lượng Hàn Quốc bị thua sút về quân số, kỹ năng
chiến đấu, và vũ khí, thua vừa số lượng vừa chất lượng, quân lực Triều
Tiên vừa đông hơn gấp 3 lần vừa có kỹ năng tác chiến cao hơn nhiều. Đa
số quân lính Hàn Quốc là tân binh, chưa kinh qua thực chiến và thậm chí
chưa được tập luyện gì nhiều trong thao trường. Các sĩ quan mới toanh
còn rất trẻ thì chưa có nhiều thời gian nghiên cứu, học hành, cũng như
chưa tốt nghiệp học viện quân sự nào. Lúc này Mỹ cũng đã rút quân từ năm
1950, vì không nghĩ Bắc Triều Tiên dám ngang nhiên bất chấp tất cả mà
dám tấn công tổng lực vào Hàn Quốc, bất chấp Liên Hiệp Quốc.
Quân
binh Hàn Quốc cũng không có chính nghĩa rõ ràng và thường mơ hồ về lòng
trung thành với chính thể họ Lý, không có tâm tình chiến đấu, đào ngũ
bỏ trốn, tháo chạy toàn bộ, hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên.
Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, không quân Triều Tiên tiến hành
oanh tạc phi trường Kimpo gần Hán Thành (Seoul). Các lực lượng Triều
Tiên chiếm được thủ đô Hán Thành trưa ngày 28 tháng 6.
Tuy nhiên,
niềm hy vọng của quần chúng Triều Tiên về việc chính phủ Lý Thừa Vãn
đầu hàng vô điều kiện, sự giải tán quân đội bệ rạc Hàn Quốc, và sự thống
nhất bán đảo, hòa bình lập lại, Triều Tiên không còn tiếng súng, không
còn đổ máu tan thành mây khói khi liên quân LHQ do Mỹ cầm đầu can thiệp
vào cuộc chiến.
Các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu,
bao gồm 39 quốc gia tham gia, trong đó có liên quân 15 nước, với sự cung
cấp nguồn nhân lực đáng kể từ Khối thịnh vượng chung Anh quốc. Tất cả
các lực lượng này đều tham chiến dưới quyền tổng tư lệnh của Thống tướng
Douglas MacArthur, một danh tướng lỗi lạc của Hoa Kỳ, một người rất có
tài về quân sự. Đây là một cuộc "đánh hội đồng" thật sự.
Sau khi
nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, tổng thống Mỹ
Truman ra lệnh cho tướng MacArthur chuyển vũ khí đạn dược đến cho quân
đội Hàn Quốc, dùng phương tiện hàng không để di tản những công dân Hoa
Kỳ. Truman phát lệnh cho không quân Hoa Kỳ ồ ạt chống lại các lực lượng
Triều Tiên, đồng thời ra lệnh cho Hạm Đội 7 bảo vệ đảo Đài Loan. Với
hành động đó ông đã xâm phạm vào chủ quyền mà Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đã tuyên bố, càng làm họ "ngứa ngáy tay chân" muốn nhảy vào cuộc
chiến.
Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội Mỹ là lực
lượng Đặc nhiệm Smith, một bộ phận của sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ đóng ở
Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và
bị quân đội Bắc Triều Tiên đánh bại với tổn thất cao. Lực lượng chiến
thắng của Bắc Triều Tiên tiến quân về phía nam, và sư đoàn 24 Mỹ với sức
mạnh còn phân nửa bị buộc phải tháo chạy về Taejeon, không ngờ nơi đó
đã bị Bắc Triều Tiên đánh chiếm từ trước. Tướng William F. Dean không
còn cách nào khác ngoài việc buông súng đầu hàng. Ông ta bị bắt trói đem
giải đến trước mặt nguyên soái Kim Nhật Thành rồi bị giam giữ.
Vào
tháng 8, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị quân đội CHDCND Triều Tiên đẩy lui vào
một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố
Pusan. Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật
Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động chống lại Liên
Hiệp Quốc (Mỹ lúc đó vẫn nấp dưới bóng cờ LHQ).
Vào tháng 9, chỉ
còn thành phố Pusan (Phú Sơn) - diện tích bằng khoảng 10% bán đảo Triều
Tiên – là vẫn chưa thất thủ. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao; không quân
yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ đã giữ vững được phòng
tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành
nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là “Vành đai Phú Sơn”.
Mặc dù có
quân đội thiện chiến Mỹ vào trực tiếp tham chiến, tình thế vẫn trở nên
nguy kịch cho chính phủ Lý Thừa Vãn, và hầu như ai cũng cho rằng Kim
Nhật Thành và quân Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất bán
đảo. Tuy nhiên, khả năng thống nhất Triều Tiên đã tan thành mây khói khi
Mỹ quyết tâm đổ đại quân vào cuộc chiến.
Không lực Mỹ đến với số
lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ
binh, nhắm vào các lực lượng Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to
lớn đến dân lành vô tội cũng như các công trình dân sự. Các máy bay ném
bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật) phá hoại
lưu thông đường xá và đường xe lửa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu
rất quan trọng đối với việc di tản của dân thường. Xe lửa dùng cho dân
sự phải nằm chờ đợi lúc ban ngày, bên trong các đường hầm.
Khắp
nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các
kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng
nhập cảng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Triều Tiên.
Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Triều
Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy
bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới
lực lượng Triều Tiên ở phía Nam.
Trong lúc đó, các căn cứ tiếp
liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Mỹ ào ạt vào Phú Sơn. Các tiểu
đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ thành phố Cựu Kim Sơn (San Francisco) được cấp
bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng
loại trung tại vành đai Phú Sơn. Đầu tháng chín, quân đội Mỹ được củng
cố mạnh hơn và đông hơn quân Triều Tiên (Mỹ 18 vạn quân so với Triều
Tiên 10 vạn quân, sau này quân số của Mỹ lên tới 48 vạn quân ở bán đảo
Triều Tiên, chống nhau với 70 vạn quân Trung Quốc). Vào thời điểm đó, Mỹ
bắt đầu mở cuộc tổng phản công.
Đối diện với các cuộc tăng viện
áp đảo của liên quân, lực lượng Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số
ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không
quân và hải quân so với Hoa Kỳ. Để giảm sức ép đối với vành đai Phú Sơn,
thống soái MacArthur đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa
phía sau phòng tuyến của Triều Tiên tại Inchon, một thành phố và là hải
cảng lớn ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Hán Thành.
Thủy triều
dữ tợn và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ
bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm, vì nếu thất bại thì coi
như toàn quân tiêu diệt, tất cả các thành phần thiện chiến, tinh nhuệ,
bản lãnh, dũng cảm nhất mới được chọn để thực hiện chiến dịch này.
MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh
khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này.
Cuối cùng
khi ông được phép, MacArthur tập hợp quân đoàn 10 Hoa Kỳ dưới quyền của
Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1
Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ và tăng phái với 8.600 quân người
Hàn và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Inchon trong chiến dịch Chromite. Vào
lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các gián điệp
Hàn Quốc, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo
dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Triều Tiên có rất ít quân
đóng tại Inchon nên lực lượng Hoa Kỳ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ
đổ bộ lên Inchon. Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi quân đoàn
10 tiến công tràn ngập quân phòng thủ ít hơn và đe dọa bao vây quân đội
chính quy của Triều Tiên.
MacArthur nhanh chóng chiếm được Hán
Thành. Quân Triều Tiên gần như bị cắt đứt, nhanh chóng rút lui về phía
Bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quân phải quay trở lại. Quân đội Mỹ đẩy
lui quân Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38.
Sau đó với lòng tham
không đáy, quân lực Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến quân đánh thẳng vào Bắc
Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo Mỹ quyết định đi xa hơn là
chỉ đơn thuần "ngăn chặn cộng sản”. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm
lý về việc tiêu diệt được một quốc gia theo XHCN và kiểm soát khu vực
Đông Bắc Á và đối trọng với Trung - Xô.
Quân đội Mỹ vượt ranh
giới vào xâm lấn CHDCND Triều Tiên đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn 10
Hoa Kỳ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Các lực lượng còn lại
của Hoa Kỳ sát cánh với quân đồng minh tiến quân phía bờ tây của Triều
Tiên và xâm chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Vào cuối tháng 10,
quân đội Triều Tiên nhanh chóng tan rã, Kim Nhật Thành và bộ chính trị
Đảng Lao động Triều Tiên phải thành lập chính phủ lưu vong ở Mãn Châu,
Trung Quốc. Lực lượng liên quân đại thắng, tha hồ bắn giết và bắt được
hơn 135.000 tù binh.
Hành động vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực
vào Bắc Triều Tiên của Mỹ đã gây quan ngại lớn cho Trung Quốc. Họ lo
rằng sự phiêu lưu quân sự của Mỹ sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục, biên
giới Triều Tiên - Trung Quốc, mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ
Trung Quốc. Nhiều người phương Tây bao gồm tướng MacArthur lúc ấy nghĩ
rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Quốc là điều cần thiết. Tuy nhiên,
tổng thống Mỹ Truman và những nhà lãnh đạo Âu - Mỹ khác không đồng ý, và
MacArthur được lệnh là phải hết sức cẩn trọng khi tiến tới gần biên
giới Trung Hoa.
Nhưng dần dần do thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề
mới, “tướng ở sa trường không nhất thiết phải làm theo lệnh vua”,
MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Truman nữa và cho rằng do
Triều Tiên được tiếp tế qua các căn cứ bên trong Trung Hoa cho nên các
căn cứ đó phải bị dội bom phá hủy.
Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ hãy
dừng lại, và tuyên bố rằng nếu Mỹ tiến thêm bước nữa thì họ sẽ can
thiệp quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia. Chính phủ Mỹ xem những lời
cảnh báo này chỉ là "muốn hù dọa Liên Hiệp Quốc" mà thôi và không coi
trọng lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến đảo Wake để họp ngắn
ngủi với MacArthur. CIA Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc
CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là “không thể nào”. MacArthur cũng
cho rằng rằng ít có khả năng xảy ra một cuộc chiến với Trung Hoa.
MacArthur ước tính Trung Hoa có vòng quanh 30 vạn quân tại Mãn Châu với
khoảng từ 10 đến 12 vạn quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó
có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không
quân, vì thế "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một
cuộc đại tàn sát đối với chúng." MacArthur đã nhận định như vậy.
Ngày
8 tháng 10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38
xâm lược Bắc Triều Tiên và gián tiếp xâm phạm đến an ninh quốc phòng của
biên giới Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết "Chí nguyện quân
Trung Hoa" (thực tế chính là quân chính quy Trung Quốc). Ông ra lệnh
quân đội di chuyển đến sông Áp Lục dưới sự tổng chỉ huy của danh tướng,
thống soái Bành Đức Hoài, sẵn sàng vượt sông.
Mao Trạch Đông điên
tiết vì Liên Xô "xúi dại" mình giúp Bắc Triều Tiên đánh Nam Triều Tiên,
để sự việc trở thành tồi tệ như thế này, "hư bột hư đường" và nhiều khả
năng sẽ "mất cả chì lẫn chài", nên cồ tìm cách "ăn vạ" với Liên Xô và
yêu cầu Hồng quân can thiệp vào cuộc chiến, xem đó là một hành động tự
vệ cần thiết, một nghĩa vụ quốc tế cao cả của gia đình XHCN.
Mao
nói với Stalin: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều
Tiên... chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa, các
ngài cũng không yên." Sau đó thủ tướng Chu Ân Lai đích thân đến Nga để
“du thuyết” và giúp tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại và
thơ từ của Mao Trạch Đông. Trung Quốc trì hoãn các chiến dịch quân sự
trong lúc chờ đợi sự tăng viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ những cuộc tấn
công đã lên kế hoạch từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10.
Tuy nhiên,
sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân
không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Nhưng các phi cơ Mig-15 hiện
đại của Nga là một sự thách thức nghiêm trọng đối với quân lực Hoa Kỳ.
Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang Mig", các phi cơ của Nga giữ
ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa
Kỳ chế tạo như Lockheed F-80 Shooting Stars cho đến khi các phi cơ F-86
(North American F-86 Sabre) được khai triển.
Người Trung Hoa rất
giận dữ trước việc giúp đỡ dè dặt, thiếu nhiệt tình của Liên Xô vì họ
cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không lực toàn diện.
Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh leo
thang chiến tranh.
Quân đội Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ
ngày 25 tháng 10 năm 1950, ban đầu với 27 vạn quân (sau này trong thời
điểm cao nhất là 70 vạn quân, tổng số quân Tàu tham chiến ở Bắc Triều
Tiên là gần 100 vạn quân, con số kỷ lục) dưới quyền tổng tư lệnh của
danh tướng Bành Đức Hoài khiến cho Mỹ bị bất ngờ vì không lường trước
được Trung Hoa có thể huy động mức độ quân số đông đảo đến như vậy ngay
từ đầu, trái với mọi dự tính của danh tướng MacArthur. MacArthur chỉ
tính đến những đơn vị Trung Hoa ở gần biên giới Triều Tiên, ông ta không
ngờ nguyên soái Bành Đức Hoài lại tập trung đại quân một cách bí mật và
siêu tốc đến vậy, không ngờ khả năng bảo mật thông tin lạc hậu của
Trung Quốc lại hiệu quả đến thế. Trong cuộc đấu trí quân sự ngoạn mục
giữa hai đại danh tướng, MacArthur đã thua Bành Đức Hoài ván này, sau
khi đã chiến thắng Kim Nhật Thành trong "hiệp 1".
Tuy nhiên, quân
đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ, vốn từng vào sinh ra tử trên khắp chiến
trường thế giới trong Thế chiến 2 chống phát xít, với vũ khí cá nhân tối
tân, binh sĩ thao luyện kỹ, kỹ năng chiến đấu cá nhân cao và khả năng
tác chiến tập thể tốt, vũ khí chiến lược và chiến thuật hiện đại, nên
sau bất ngờ ban đầu họ đã lập tức trở về trạng thái bình thường và nhanh
chóng lấy lại ưu thế.
Sau những vụ đụng độ sau đó, Bành Đức Hoài
thấy quân mình lép vế, hao tổn nhiều sinh lực và thất bại trong những
trận giáp chiến xáp lá cà khi những quân lính người Hoa nhỏ con, gầy ốm,
xanh xao, thiếu ăn phải đánh xáp lá cà trong một phạm vi hẹp với những
chiến binh người Mỹ đô con, to cao, lực lưỡng, được luyện tập võ thuật
chu đáo, và với các vũ khí cá nhân tốt, nên đã quyết định rút lui vào
trong vùng rừng núi.
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc
lại xem sự rút lui của này như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai
lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Giải phóng quân Trung Quốc. Thế
nên các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm xỉa
gì đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa.
Tình báo Hoa Kỳ sơ sài
trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã hoạt động không hiệu quả tại
Bắc phần Triều Tiên cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam phần Triều
Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan.
Lính
Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu
tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ
càng, một quân đoàn của TQ gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ
An Tung ở Mãn Châu, phía Bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km)
đến nơi tập kết tại Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến
19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những
con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày
trong vòng 18 ngày.
Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi
chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án
trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi
người, thú vật và các trang bị được giấu đi hay ngụy trang. Trong ban
ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước
để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị
của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì,
họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi
cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn bỏ bất cứ binh sĩ nào vi
phạm lệnh này.
(Bản đồ trận Hồ nước Chosin)
Cuối
tháng 11, quân Trung Hoa đánh vào phía Tây, dọc theo sông Chongchon, và
hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn Hoa Kỳ và thành công gây một đòn chí
tử vào sườn các lực lượng còn lại của các lực lượng đồng minh. Sự bại
trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một
đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử.
Tại miền Đông, trong trận Hồ
nước Chosin, một đơn vị 3 vạn người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng
chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của quân đội Trung
Quốc, chẳng bao lâu Mỹ bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng
vây nhưng bị thương tổn khoảng 15.000 quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
vốn rất thiện chiến đã bị đánh tan tác tại trận này và phải rút lui, tuy
nhiên họ cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho 6 sư đoàn CHND Trung Hoa.
Trong
khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ
khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích
hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách
của ông có tựa đề là "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc
chiến tranh) :
Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn
vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người,
bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt
đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai
bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến
công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu
diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến
sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này.
Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau:
Trong
giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực
hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với
bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn
công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật
và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về
đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành
công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên Hiệp
Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực
lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau
đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ
cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình
chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau
đó được khép lại quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di
chuyển phía dưới miệng chữ V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải
vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến thuật như thế của Trung Quốc đã
được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch'osan,
nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch'on và Ch'ongch'on.
Lực
lượng Hoa Kỳ tại vùng Đông Bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng
chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về
miền Nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng
Hungnam nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12
năm 1950.193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến
di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 10 vạn binh sĩ, 17.500 xe các loại,
và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi
họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã thiêu hủy, san bằng thành phố, và phá
hủy tất cả không cho quân đội Trung Quốc sử dụng. Hành động tàn bạo này
đã khiến nhiều dân lành trở thành vô gia cư và không có nơi trú thân
trong mùa đông, làm nhiều thường dân phải chết cóng.
Tháng giêng
năm 1951, Bành nguyên soái lại đánh mạnh trong giai đoạn tiến công thứ
ba (được biết với tên gọi Cuộc Tổng tấn công mùa đông). Quân Trung Hoa
sử dụng lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu vào ban
đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt
xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên
lạc và đánh lạc hướng quân địch. Kết hợp giữa chiến thuật biển người,
tiền pháo hậu xung, nghi binh, đánh úp, đánh trộm, và quấy rối thường
xuyên, tập kích trong khi lực lượng Liên Hiệp Quốc đang ngủ ban đêm,
dùng loa la ó hò hét tuyên truyền và kêu gọi đầu hàng, quấy rối không
cho các lực lượng LHQ ngủ, nghỉ. Mặc dù không thành công trong các mưu
kế dụ địch vào địa điểm phục binh, nhưng các chiến thuật tác chiến khác
của Bành Đức Hoài đã phát huy hiệu quả rất tốt. Quân đội Mỹ không có
thuốc trị cho những chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên
họ rút lui nhanh về miền Nam. Thủ đô Hán Thành bị bỏ lại và bị đại binh
Trung Quốc chiếm đóng vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.
Khó khăn thêm
gia tăng cho Quân đoàn 8 Hoa Kỳ khi tướng Walker bị tử trận. Trung tướng
Matthew Ridgway, một người hùng và là một cựu chiến binh nhảy dù trong
Thế chiến 2 lên thay thế và nhanh chóng từng bước nâng sĩ khí và tinh
thần chiến đấu của Quân đoàn 8 vốn đang kiệt quệ và sa sút trong cuộc
rút lui chiến thuật. Tuy nhiên tình thế quá bi quan đến nỗi tướng
Douglas MacArthur kêu gào hăm dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống Bình
Nhưỡng và Bắc Kinh, dọa sẽ biến Mãn Châu thành "tro bụi", những lời đe
dọa này của tướng MacArthur gây nhiều báo động cho quốc tế. Liên Xô và
Trung Quốc lập tức bám vào những lời tuyên bố kém chính trị của
MacArthur, nhắc lại việc Mỹ dội bom nguyên tử xuống Nhật và dọa sẽ đưa
Mỹ ra tòa án quốc tế vì tội ác chiến tranh diệt chủng và tội ác chống
loài người, và dọa họ nhất địnhh sẽ làm vậy nếu Mỹ còn dám có ý nghĩ về
việc dùng vũ khí hạt nhân. Sau này những người lãnh đạo Hoa Kỳ bào chữa
rằng đó chỉ là chiến tranh tâm lý chứ MacArthur không có ý định sử dụng
bom hạt nhân, và đó chỉ là ý kiến riêng của cá nhân MacArthur chứ không
phải là quan điểm chung của chính phủ chúng tôi.
Quân đội Mỹ tiếp
tục tháo lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía Nam Suwon ở
miền Tây, Wonju ở giữa, và phía Bắc Samchok ở miền Đông là nơi mặt trận
được ổn định. Quân Trung Hoa đã bỏ xa đường tiếp vận của họ và bắt buộc
phải lùi lại. Quân Trung Hoa gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Hán Thành
vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu, tất cả lương thực và đạn
dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp
Lục.
Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía
trước lực lượng Hoa Kỳ bị bỏ hoang, tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám
thính mà sau đó biến thành một cuộc tiến công toàn diện có tên gọi là
"Operation Roundup" (Chiến dịch Bố ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến
hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và nhất là
trên không của Mỹ. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai,
quân Mỹ đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.
Trung Quốc phản
công vào giữa tháng hai bằng cuộc tiến công giai đoạn 4 từ Hoengsong ở
miền Trung chống các vị trí của Quân đoàn 9 Hoa Kỳ quanh Chipyong-ni.
Các đơn vị của sư đoàn 2 Bộ binh Hoa Kỳ, gồm có tiểu đoàn Pháp tại Triều
Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng
phá vỡ cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Mỹ và đồng minh đã học
được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể
giữ vững trận địa, do đó họ đã chống trả rất dũng cảm.
Chiến dịch
Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng
Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ đảm
nhiệm, họ chiến đấu rất hung hãn. Đây là một cuộc tiến công toàn diện
ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực
với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Triều Tiên và Trung
Hoa. Vào cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn 1 Hoa Kỳ đã tái chiếm lại
được tất cả các lãnh thổ phía Nam sông Hán, trong khi Quân đoàn 9 tái
chiếm Hoengsong, đánh bại Bành Đức Hoài và quân Trung Quốc.
Ngày 7
tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lại thọc mạnh về phía trước trong
Chiến dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui quân đội Trung
Hoa ra khỏi thủ đô Hán Thành (Seoul), đây là lần thứ tư trong một năm
thành phố này đổi chủ. Hán Thành ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số
của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn
200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng.
Sau khi đánh bại
quân Trung Hoa chiếm lại Hán Thành, gây tổn thương nặng nề cho Trung
Quốc, Douglas MacArthur trở nên kiêu căng, ngạo mạn, lớn lối, cực đoan
hơn, phát biểu thêm nhiều lộng ngôn kém chính trị, gây hại cho hình ảnh
nước Mỹ và chính phủ, sự khác biệt, bất đồng, mâu thuẫn, bất mãn với
chính quyền trung ương Mỹ và tổng thống Truman ngày càng sâu, không muốn
nghe lệnh chính phủ trung ương mà chỉ muốn độc đoán tự quyết định, có
dấu hiệu lộng quyền, trở thành một vị tướng bất trị, một con ngựa bất
kham, nên đã bị tước quyền tư lệnh bởi Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951
vì tội “bất tuân thượng lệnh”.
Quyết định bất ngờ và khó hiểu này
của tổng thống Mỹ ngay trong lúc quân Mỹ đang trên đà chiến thắng đã
gây tranh cãi rất nhiều và gây ra một làn sóng phản đối và mâu thuẫn nội
bộ trong chính quyền và giới chức quân sự Hoa Kỳ. Cuộc đụng độ lịch sử
giữa 2 vị tướng lừng danh đã trở thành một quả đắng cho tướng MacArthur.
Trong cuộc thi thố tài năng quân sự, đọ trí đấu mưu, Bành Đức Hoài đã
thắng MacArthur. Sau khi MacArthur bị tước quyền hành và bắt phải về
nước, Bành Đức Hoài vui mừng ra mặt, nói với các đồng chí của ông đại ý:
Truman ngốc thật, Nhạc Phi đã bị hoàng đế triệu về, để xem cách nào
chúng nó thắng chúng ta được đây.
Nhưng Bành Đức Hoài đã vui mừng
quá sớm, sau khi loại được MacArthur, Bành và giới quân sự Trung Quốc
trở nên chủ quan. Họ không biết Tư lệnh tối cao mới, tướng Ridgway cũng
là một tường có nhiều quân công, chiến tích trong Thế chiến 2 chống phe
Trục, biết cách động viên và thu phục lòng trung thành, cống hiến của
quân đội, được nhiều chuyên gia Hoa Kỳ xem là một nhà quân sự có tài
ngầm (underate), thực tài có lẽ không thua kém MacArthur bao nhiêu. Ông
ta tiến hành củng cố quân đội Mỹ và các đàn em để chuẩn bị cho một loạt
các cuộc phản công hiệu quả. Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển qua cho
tướng James Van Fleet thống lãnh.
Một loạt các cuộc tấn công sau
đó từ từ đẩy lui quân đội Trung Quốc như các chiến dịch Courageous và
Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa lục quân và không quân đã vây
hãm quân đội CHND Trung Hoa giữa Kaesong và Seoul. Quân đội Hoa Kỳ tiếp
tục thừa thắng xông lên cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách
vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía Bắc.
Tuy nhiên quân đội
Bành Đức Hoài khó thể bị đánh bại. Tháng tư năm 1951 họ mở đợt tiến công
giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của 3 quân đoàn,
tổng cộng lên đến 70 vạn quân. Quả đấm thôi sơn giáng thẳng vào Quân
đoàn 1 Hoa Kỳ nhưng sự chống trả dũng mãnh trong các trận đánh tại sông
Imjin và Kapyong đã làm chậm lại tiến trình, quân Tàu bị chặn đứng ở
phòng tuyến phía Bắc Seoul.
Một cuộc tiến công của Trung Quốc sau
đó ở Trung phần Triều Tiên, chống Quân đoàn 10 Hoa Kỳ và lực lượng Liên
Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu,
nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công phải ngừng lại. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ
phản công mạnh và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas.
Liên Hiệp Quốc, Mỹ và đồng minh quyết định dừng lại ở phòng tuyến
Kansas, nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 38.
(Lãnh thổ đổi chủ trong phần đầu của cuộc chiến cho đến khi mặt trận được ổn định)
Phần
còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các
cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn vào lãnh thổ CHDCND Triều Tiên và dân cư
của họ, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7
năm 1951 tại Kaesong giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thậm chí trong suốt các
cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục, hai bên vẫn "vừa
đánh vừa đàm".
Mao Trạch Đông cố mở các chiến dịch quân sự nhằm
thử quyết tâm của Truman xem có dám tiếp tục cuộc chiến. Các cuộc đụng
độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng
chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận
đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía Tây trong suốt năm
1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.
Tháng
10 năm 1951, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết
lập khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số phi cơ B-29 thực hiện các
phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Triều Tiên mang theo các quả bom
hạt nhân "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch
được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận
này có ý định thử chức năng thật sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng
trong một tấn công bằng vũ khí hạt nhân, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và
thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả
cho thấy bom hạt nhân không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát
hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi. Việc này đã
làm cho dư luận thế giới lên án Mỹ. Sau này các sử gia vẫn tranh cãi
liệu đây là ý định thật của Mỹ hay chỉ là trò chơi tâm lý chiến để răn
đe Trung Quốc, Liên Xô, và khối cộng sản.
Trong cuốn "The Origins
of the Korean War" xuất bản vào các năm 1981, 1990, sử gia người Mỹ
Bruce Cummings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30 tháng 11 năm
1950, những lời ám chỉ tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống
Truman là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chớ
không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng. Ngày 30 tháng 11 năm 1950,
Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh gia
tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử.
Vào
ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D.
Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra
giải pháp để kết thúc cuộc chiến trong danh dự. Với việc chấp thuận lời
đề nghị ngưng bắn của Ấn Độ, một cuộc ngưng bắn được thiết lập vào ngày
27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh
vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó,
được quân đội Trung Quốc phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội
Hoa Kỳ.
Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Kaesong, cố đô của
Triều Tiên, là phần đất của Hàn Quốc trước khi chiến sự bùng nổ nhưng
nay là một thành phố đặc khu của CHDCND Triều Tiên. Nhiều lãnh thổ khác
trước chiến tranh thuộc Bắc Triều Tiên, sau chiến tranh lại thuộc Nam
Triều Tiên. Cho đến ngày nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được
ký kết, về mặt kỹ thuật và pháp lý, Đại Hàn Dân Quốc và CHDCND Triều
Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù hai bên đã ký kết
Hiệp ước Đình chiến.
Tội ác của Mỹ - Hàn đối với thường dân hai miền Triều Tiên
Theo
nhiều người Mỹ, phương Tây, và Hàn Quốc thừa nhận, Hoa Kỳ và Hàn Quốc
đã hành quyết tập thể hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người thân
cộng trong những sự kiện như vụ tàn sát tập thể tù nhân chính trị của
nhà tù Daejeon và cuộc thảm sát tập thể đẫm máu trong vụ “Nổi dậy
Cheju”. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào
thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là trên 100.000 nạn nhân, và xác
chết của họ bị quăng vào các hố chôn tập thể. Gần đây, Ủy ban Hòa giải
và Tìm sự thật, một hội đoàn phi chính phủ và hoạt động độc lập của
những người yêu nước ở Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800
vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp bán đảo do quân đội Mỹ gây ra.
Và những nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước, trong, và sau
cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho
phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy, giết
chết tất cả người trên cầu.
Trên đường thua chạy, Lý Thừa Vãn do
thiếu quân đã tiến hành bắt lính, sung quân cấp tốc và bắt buộc tất cả
người dân chung quanh nhập ngũ ngay để bổ sung. Có lúc quân đội Mỹ được
lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện gần mặt trận là thù
địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" (giết) họ ngay lập tức. Việc này đưa
đến nhiều vụ thảm sát giết chóc bừa bãi hàng ngàn dân thường Nam Triều
Tiên bởi quân lính Hoa Kỳ, tại nhiều nơi, quân đội Mỹ - Hàn đem việc bắn
giết thôn dân làm trò tiêu khiển, mà đỉnh cao là cuộc Thảm sát tắm máu
No Gun Ri trong đó nhiều người không có khả năng tự vệ - đa số là phụ
nữ, trẻ con và người già - nhiều người đàn bà và bé gái đã bị quân đội
Mỹ hãm hiếp tập thể và sau đó giết chết. Nhiều thôn khác cũng thường
xuyên bị không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, (năm 2007, 2008)
Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách “ngăn chặn” thường dân tại một số
nơi ở mặt trận ở một số thời điểm.
Miền Bắc Triều Tiên bị tàn phá
nặng nề bởi bom Mỹ, chỉ vài căn nhà còn đứng vững. Hơn 3,5 triệu người
Triều Tiên bị chết trong cuộc tiến công của Mỹ, và một danh sách dài các
tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ đã được ghi nhận bao gồm cả việc sử
dụng vũ khí sinh học, vũ khí hủy diệt hàng loạt và những cuộc tàn sát cư
dân địa phương. Theo chuyên gia Michel Chossudovsky thuộc cơ quan
Global Research, gần 30% dân số Bắc Triều Tiên đã chết dưới những đợt
dội bom của Mỹ trong thập niên 1950.
Ngoài ra chính phủ các bên
cũng tố cáo, cáo buộc, quy kết lẫn nhau về nhiều tội ác chiến tranh
khác, tuy nhiên không có những bằng chứng rõ ràng. Hoa Kỳ cho rằng đã có
một vụ thảm sát tại đồi 303, khi 41 tù binh của họ đã quân Kim Nhật
Thành bắt giữ và xả súng máy thảm sát trong tư thế vẫn bị trói tay sau
lưng trong trận Vành đai Phú Sơn.
Một bộ phận người dân Hán Thành
vốn là ủng hộ viên, cảm tình viên, thiên cộng, hoặc chống Lý Thừa Vãn
đã chạy theo quân đội Triều Tiên (vốn đang trên đường thua chạy) về miền
Bắc (điều bất ngờ ngoài dự tính này đã làm cho cuộc rút lui đang có kỷ
luật trở thành vô trật tự và ì ạch, chậm chạp vì phải lo cho dân). Tuy
nhiên, Hàn Quốc và Hoa Kỳ lại gọi đây là sự cưỡng bức di cư, và xem đó
là một trong những "tội ác chiến tranh" của Triều Tiên.
Nhà thổ phục vụ lính Mỹ
Trong
những năm 1950, kể từ khi Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên đồng thời chủ
động Bắc tiến cưỡng chiếm và xâm lược Bắc Triều Tiên, chính quyền thân
Mỹ ở Hàn Quốc xem quân đội Mỹ như một cơ hội thu lợi về kinh tế mặc dù
món lợi này được trả giá bằng hàng chục ngàn phụ nữ. Khi quân đội Mỹ tới
Hàn Quốc cũng là lúc các tấm biển chỉ đường mọc lên, chỉ dẫn tới các
thị trấn Hàn Quốc hay còn gọi là các địa điểm "nghỉ ngơi và giải trí"
(R&R). Những nơi này nằm gần các trại lính lớn ở Hàn Quốc phục vụ
cho "nhu cầu tiêu dùng" của binh lính Mỹ. ’’Nhu cầu tiêu dùng’’ này
chính là tình dục của lính Mỹ.
Những thị trấn đồi trụy này không
phải do tư nhân xây dựng để "làm ăn", kiếm lợi, mà do chính các chế độ
cầm quyền ở Hàn Quốc đã thiết lập để vừa phục vụ lính Mỹ vừa sinh lợi
cho nền kinh tế. Chính phủ Lý Thừa Vãn phát đăng ký cho tất cả gái điếm
quân đội và thẻ đăng ký giúp họ ra vào những điểm R&R này. Giấy
thông hành duy nhất mà một nam giới cần là một bộ quân phục Mỹ.
Vào
cuối thập niên 1950, chính phủ Mỹ và chính phủ Hàn Quốc ký với nhau 2
hiệp nghị bất bình đẳng. Một là Hiệp ước phòng thủ chung, hiệp định này
chính danh hóa sự có mặt của thực binh Mỹ ở Nam Triều Tiên, chính thức
cho phép quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc. Hiệp ước cũng quy định các địa
điểm R&R (phục vụ tình dục) sẽ được "cống nạp" cho lính Mỹ. Vào năm
1988, lính Mỹ vẫn còn sử dụng các thị trấn Hàn Quốc này. Ngoài ra, các
con số thống kế cho thấy có hơn 18.000 gái mại dâm Hàn phục vụ gần 5 vạn
lính Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Một số chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ,
ở đó sẽ có các nhà thổ do các chính phủ bản xứ tài trợ và ủng hộ.
Hai
là hiệp nghị Status of Forces Agreement, theo thỏa thuận này, tòa án
Hàn Quốc không có quyền xử binh lính Mỹ đang đóng quân và làm nhiệm vụ
quân sự trên lãnh thổ Hàn Quốc, chỉ có tòa án binh Mỹ mới có quyền xử
binh lính Mỹ, trừ các trường hợp, vụ án đặc biệt.
Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh
Chiến
tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh quy mô đầu tiên trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh và đã gây thiệt hại nặng nề cho cả bán đảo Triều Tiên
và các lực lượng Liên Hiệp Quốc.
Mặc dù Hàn Quốc trì trệ về kinh
tế trong những thập niên sau chiến tranh, nhưng nhờ Mỹ tích cực đổ tiền
vào viện trợ, đầu tư, giúp đỡ, Hàn Quốc sau đó đã được Mỹ và phương Tây
giúp vực dậy nền kinh tế và hỗ trợ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Kinh
tế Triều Tiên thì cũng đã hồi phục và phát triển nhanh chóng sau chiến
tranh và cho đến khoảng năm 1975 đã vượt qua nền kinh tế của Hàn Quốc.
Tuy nhiên, nền kinh tế của Triều Tiên tăng trưởng chậm dần. Ngày nay, do
đòn thù cấm vận của Mỹ và phương Tây, chính sách đóng cửa, tự cô lập
với thế giới bên ngoài, tự cung tự cấp, tự lực cánh sinh, bế quan tỏa
cảng và nhiều sai lầm về chính sách, về thực hành, về công tác lãnh đạo,
về mô hình thể chế, cơ chế chính trị, các thiết chế xã hội v.v. cộng
với thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa v.v. cho nên nền kinh tế Triều
Tiên đã sa sút, lương thực thiếu thốn, và hàng năm phải nhận viện trợ từ
Trung Quốc và cả Hàn - Mỹ để cứu đói trong khi nền kinh tế Hàn Quốc đã
phát triển ưu việt.
Sau chiến tranh, Kim Nhật Thành bắt tay vào
việc kiến thiết đất nước vốn đã bị quân đội Mỹ tàn phá nặng nề. Ông thực
hiện kế hoạch “Kinh tế quốc gia 5 năm”, tạo nên một nền kinh tế tập
trung, với tất cả ngành công nghiệp đều là công hữu và tất cả nền công
nghiệp được tập thể hóa. Đất nước hình thành dựa trên nguyên lý chủ
nghĩa quân bình và nền kinh tế dựa trên nhu cầu của công nhân và đội ngũ
trí thức. Kinh tế tập trung vào công nghiệp nặng và sản xuất vũ khí. Cả
hai bên Bắc - Nam đều duy trì một lực lượng vũ trang đông đảo để bảo vệ
đường ngừng bắn năm 1953.
Giữa thập niên 1960, chủ tịch Kim Nhật
Thành đã có những nỗ lực xâm nhập Nam Triều Tiên để chống Hàn Quốc.
Những nỗ lực đó lên đến cực điểm khi Kim Nhật Thành cho các lực lượng
sát thủ đặc biệt tấn công Nhà Xanh và ám sát tổng thống độc tài Phác
Chính Hy, nhưng nhiệm vụ thất bại, không giết được Phác Chính Hy mà còn
ngộ sát vợ ông ta. Quân đội Triều Tiên có thái độ ngày càng quyết liệt
đối với Hàn Quốc và quân đội Hoa Kỳ đồn trú ở gần giới tuyến quân sự,
lôi kéo quân đội Mỹ vào những cuộc đấu súng quyết liệt dọc theo vùng phi
quân sự. Vụ bắt giữ thủy thủ của tàu do thám USS Pueblo là một phần của
nỗ lực này.
Theo sách "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách
lịch sử" của tác giả Trần Quang Thuận, do Tu viện Quảng Đức xuất bản năm
2004 ở Hoa Kỳ, chương 10, thì từ năm 1953 sau hiệp định đình chiến cho
đến năm 1969, thì Bắc Triều Tiên đã gây ra 6.814 biến cố tại Nam Triều
Tiên. Từ năm 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Từ 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Bình
Nhưỡng cho đào hầm xuyên qua ranh giới Bắc - Nam để đột nhập vào Nam.
Ba đường hầm đã được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Hải quân Triều
Tiên từ năm 1975 đến 1980 liên tục áp giải tàu đánh cá Hàn Quốc, nhiều
cán binh Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng vào năm 1982, đa
số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt.
(Lãnh tụ Kim Nhật Thành, Tư lệnh tối cao của quân đội Triều Tiên tại cứ điểm trên núi Taedok, tháng 2/1963)
Tuy
nhiên, thời gian về sau Triều Tiên đã gặp phải những khó khăn ngày càng
tăng về kinh tế sau nhiều thập kỷ phát triển thành công. Trong thời kỳ
Trung - Xô xung đột, do chống chủ nghĩa xét lại của một số lãnh đạo Liên
Xô, và quan niệm rằng Trung Quốc là láng giềng ở sát bên cạnh, theo
Trung Quốc có lợi hơn theo Liên Xô, nên Triều Tiên đứng hẳn về phía
Trung Quốc. Sau đó còn giúp Trung Quốc và Khmer Đỏ chống Liên Xô và Việt
Nam (họ bảo rằng Việt Nam đã sai khi "xâm lược" Campuchia, VN "làm to
chuyện trước"). Do dại dột ngoại giao đó, Triều Tiên mất quan hệ với
Việt Nam, Lào, Cuba, quan hệ với Liên Xô và Đông Âu bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Sự cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc vào năm 1979
về sau cũng đưa đến việc thờ ơ, lãnh đạm với Triều Tiên. Sự bao vây cấm
vận kinh tế và quân sự của các nước do Mỹ cầm đầu. Chính sách tự cô lập,
bế quan tỏa cảng. Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết trong thời kỳ
1989-1991. Tất cả những hiện tượng đó đã đẩy Triều Tiên vào thế cô lập,
cộng với những thiên tai bão lũ gây thêm vô vàn khó khăn kinh tế cho
Triều Tiên.
Một Triều Tiên trước đây có tốc độ công nghiệp hóa
nhanh hơn, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh thấp hơn, chất lượng sống cao hơn
Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ, đến những năm 1990 đã gặp vô số khó khăn
xuất phát từ sự thiếu thốn đối tác thương mại sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ
cấm vận, các trận bão lụt khủng khiếp. Người dân Triều Tiên gọi thời kỳ
này là "Cuộc hành quân gian khổ".
(Niềm vui của chủ tịch Kim Nhật Thành khi đi thăm cánh đồng lúa được mùa ở Onchon, tháng 8/1968)
Dư
luận trong dân chúng Triều Tiên thường xuyên lặp đi lặp lại rằng Triều
Tiên sẽ được thống nhất trước sinh nhật lần thứ 70 của lãnh tụ Kim Nhật
Thành vào năm 1982, và đã có những nỗi lo sợ từ phương Tây rằng Kim Nhật
Thành sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ hai. Tuy
nhiên, sự chênh lệch về kinh tế và thực lực quân sự giữa Bắc và Nam (nơi
vẫn hiện diện 5 vạn quân đội Mỹ) vào thời kỳ đó khiến cho việc thống
nhất bán đảo không thể diễn ra.
(Nhân dân và Phật tử ở Hàn Quốc biểu tình chống đối người Mỹ và chính phủ Lý Minh Bác mà họ gọi là "chính phủ Tin Lành")
Chính nghĩa thuộc về ai?
CHDCND
Triều Tiên không có chính nghĩa rõ ràng như Việt Nam, do tính chính
danh, chính thống, pháp lý, chính nghĩa dân tộc của họ không bằng Việt
Nam, cũng như cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên không hoàn toàn là cuộc
chiến chống xâm lăng như 2 cuộc chiến trên bán đảo Đông Dương. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa họ không có chính nghĩa, hay Hàn Quốc có
chính nghĩa hơn, hay hai bên có chính nghĩa ngang nhau. Trong phạm vi
bài này tôi chỉ đưa ra những vấn đề khách quan cho các bạn đọc tự suy
ngẫm, nhận xét và đánh giá.
Trước Chiến tranh Triều Tiên, sau khi
tướng Ivan Chistiakov của Liên Xô và tướng John R. Hodge của Hoa Kỳ
giải giáp quân đội Nhật, giải phóng bán đảo Triều Tiên khỏi nanh vuốt
của đế quốc Nhật. Dưới sự hậu thuẫn của Xô - Mỹ, một số chính khách sa
lông của bán đảo đã tuyên bố độc lập suông, tuy nhiên không có quốc gia
nào hay nhà nước nào được thành lập, và cái gọi là "độc lập" này chỉ có
trên danh nghĩa, do thực tế quyền lực nằm trong tay Liên Xô ở phía Bắc
và Hoa Kỳ ở phía Nam.
Năm 1948, tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một trí thức
chính khách chống Nhật kiểu cải lương, cùng phe đảng của mình tuyên bố
bán đảo Triều Tiên độc lập và thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc. Gần một
tháng sau, Kim Nhật Thành, một sĩ quan quân đội trong tổ chức Quân đội
Hỗn hợp kháng chiến miền Đông Bắc và Quân Tình nguyện Triều Tiên do Đảng
Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo (cũng từng tham gia Hồng quân Liên Xô)
cùng phe đảng của mình tuyên bố bán đảo Triều Tiên cũng độc lập, không
công nhận chính quyền Lý Thừa Vãn ở phía Nam, thành lập nước CHDCND
Triều Tiên.
Như vậy về danh nghĩa, phe Nam Triều Tiên có chính
danh hơn, do đã tuyên bố độc lập và thành lập quốc gia trước phe Bắc
Triều Tiên gần 1 tháng. Lý Thừa Vãn cũng là một trí thức kỳ cựu có tên
tuổi, có kinh nghiệm chính trường thâm niên, nhiều năm hoạt động chống
Nhật. Trong khi Kim Nhật Thành lúc ấy chỉ là một viên tướng trẻ mà theo
Lý đại khái là "một thằng nhãi ranh miệng còn hôi sữa".
Tuy nhiên
trên thực tế thì phe Triều Tiên lại có chính nghĩa hơn, do phần đông
nhân lực của phe này đều thuộc các lực lượng vũ trang chống Nhật, đã
từng chiến đấu chống quân xâm lược Nhật bao nhiêu năm qua. Họ Kim cũng
là một gia đình cách mạng có truyền thống hoạt động chống Nhật, chính
gia đình này đã phải di tản sang Mãn Châu để tránh bọn Nhật ruồng bố,
cha của Kim Nhật Thành là một chí sĩ chống Nhật cải trang thành một mục
sư. Bản thân Kim Nhật Thành cũng vào tù ra khám và vượt ngục (Nhật,
Tưởng) nhiều lần.
Trong khi Lý Thừa Vãn không có ưu thế về gia
tộc (yếu tố gia tộc luôn rất mạnh trong văn hóa lâu đời của dân tộc Cao
Ly), bản thân cũng chỉ chống Nhật bằng biện pháp ... biểu tình chứ không
trực tiếp cầm súng. Theo những người cánh tả Triều Tiên thì Lý Thừa Vãn
chỉ là một lão già quá đát mà theo Kim Nhật Thành đại khái là "một con
cáo già thành tinh, lạm dụng tiểu xảo, lợi dụng thiên hạ, nụ cười chứa
dao, khẩu Phật tâm xà, chỉ biết nói suông, khua môi múa mép, trói gà
không chặt, chưa bao giờ đụng đến khẩu súng".
Như vậy, thời kỳ
lịch sử này đã cho thấy sự chính danh và chính nghĩa của đôi bên cũng
một chín một mười, bên tám lạng - người nửa cân. Chẳng phe nào có đủ
chính nghĩa một cách rõ ràng để quy tụ được lòng dân trên cả nước.
Trong
Chiến tranh Triều Tiên, quân đội Hàn Quốc yếu kém và bệ rạc hơn quân
đội Triều Tiên nhiều, cả về số lượng, chất lượng, lẫn vũ khí, cộng với
yếu tố bất ngờ nên bị dồn vào vùng núi Phú Sơn (Pusan) tử thủ. Khi sắp
thua thì liên quân Liên Hiệp Quốc do tướng Mỹ MacArthur chỉ huy nhảy vào
cứu nguy, đánh đuổi, truy quét quân Triều Tiên và thừa thắng xông lên
đánh qua vĩ tuyến 38, chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng, các lãnh đạo Triều
Tiên đều phải chạy sang Mãn Châu, khi CHDCND Triều Tiên sắp thua thì đại
binh Trung Quốc do nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy nhảy vào cứu nguy.
Như
vậy, một bên sắp chết thì quân Liên Hiệp Quốc - Mỹ xông vào cứu sống.
Bên kia sắp chết thì quân Trung Quốc nhảy vào cứu sống. Sau đó quân đội
Trung Quốc và lực lượng LHQ chống nhau trên bán đảo này và giằng co với
nhau tại đây.
Như vậy, trong Chiến tranh Triều Tiên, cho thấy
không ai có chính nghĩa rõ ràng cả. Tuy nhiên phe Kim có ưu thế hơn một
chút do là người dám đánh trước và có mong muốn thống nhất bán đảo thật
sự, trong khi đó phe Lý chỉ muốn phòng thủ, cát cứ ly khai, xưng vương
một cõi, duy trì tình trạng phân chia thiên hạ. Đó là giai đoạn 1 của
chiến tranh Triều Tiên, còn giai đoạn 2 thì chủ yếu là quân đội Trung
Hoa và quân đội LHQ - Mỹ giao chiến, nên chẳng phe nào có một chút chính
nghĩa nào cả vì vai trò của Triều Tiên và Hàn Quốc lúc này đã mờ nhạt,
không còn bao nhiêu thực lực và không có tiếng nói, vai trò gì nhiều
trong cuộc chiến giữa Trung Quốc và Mỹ - LHQ.
Sau trận liều lĩnh,
mạo hiểm mong muốn thống nhất thiên hạ của tướng Kim Nhật Thành, Triều
Tiên đã trả một giá rất đắt, đất nước ngã quỵ, không còn khả năng Nam
tiến. Từ đó đất nước này phải phụ thuộc vào sự viện trợ quân sự, kinh tế
từ Liên Xô, Đông Đức, Trung Quốc và sự viện trợ nhân đạo, nhiên liệu,
lương thực từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và một số tổ chức nhân đạo
quốc tế, Liên Hiệp Quốc. Trong chiến tranh liên Triều, Bắc Triều Tiên đã
bị Hoa Kỳ dội bom đến không còn một nóc nhà nào còn nguyên vẹn, ở thủ
đô Bình Nhưỡng hầu hết các nhà đều bị máy bay ném bom phá hủy hoặc bị bộ
binh đặt chất nổ phá hủy, hoặc pháo binh pháo kích vào phá hủy, Mỹ và
đồng minh đã tổ chức phá hoại có hệ thống tại đây và không còn ngôi nhà
nào còn nguyên vẹn.
Ngày nay, Triều Tiên dù muốn thống nhất thì
cũng "lực bất tòng tâm" sau một thời gian dài thiên tai bão lụt và bị
bao vây cấm vận, họ chỉ đủ sức phòng thủ. Trong khi Hàn Quốc nhờ Mỹ và
phương Tây viện trợ, kinh tế phát triển, có đủ khả năng tấn công để
thống nhất bán đảo nhưng sợ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, sợ phải gánh
thêm hàng chục triệu miệng ăn từ phía Bắc, nên vẫn chỉ duy trì hiện
trạng và phòng thủ là chủ yếu, như vậy là không thật lòng muốn thống
nhất. Trong khi cuộc chiến tranh liên Triều đã chứng minh rằng khi mạnh
hơn, khi có đủ điều kiện thì CHDCND Triều Tiên sẵn sàng vượt vĩ tuyến
tấn công vào phía Nam để thống nhất bán đảo Triều Tiên.
Theo quan
điểm của người viết, vấn đề thống nhất quốc gia là quan trọng và cần
thiết, nên được đặt cao hơn các giá trị kinh tế. Ấn Độ chỉ biết đấu
tranh ôn hòa kiểu Gandhi nên đã bị đế quốc Anh phân chia vĩnh viễn làm 4
nước (Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Pakistan, sau đó lại chia hai thành
Pakistan và Bangladesh). Bán đảo Triều Tiên có thể cũng sẽ bị phân chia
mãi mãi như Ấn Độ và một số nước khác trên thế giới như Đại Colombia đã
tách ra thành 3 nước (Colombia, Venezuela, Ecuador), về sau Panama lại
ly khai khỏi Colombia vào năm 1903, vương quốc Hà Lan chia thành 3 quốc
gia (Hà Lan, Bỉ, Luxembourg), Tiệp Khắc lại tự chia đôi (Cộng hòa Séc và
Cộng hòa Slovakia). Không nhất định hễ chia cắt là sẽ được thống nhất.
Lịch sử thế giới đã nhiều lần cho thấy có những quốc gia, dân tộc chia
rẽ ngàn đời. Sự ăn ngon mặc đẹp, tiền nhiều, thu nhập cao, kinh tế phát
triển, khoa học công nghệ cao, giàu có v.v. không mua được một Tổ quốc
hoàn toàn độc lập tự do, thống nhất, và hòa bình lâu dài.
Lúc đó
Mỹ chưa viện trợ nhiều cho Hàn Quốc. Kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật,
quân sự Triều Tiên đều vượt trội Hàn Quốc, quân đội thì vừa "tinh" lại
vừa "đa", đó là cơ hội khó thể bỏ qua, có lẽ đó là thời điểm thích hợp
để tiến đánh. Chẳng trách khi quân đội Kim Nhật Thành tiến nhập Hàn Quốc
thì đánh đâu thắng đó, thế như chẻ tre, còn quân đội Lý Thừa Vãn thì
lớp rủ nhau đào ngũ, lớp nối đuôi nhau bỏ chạy, lớp đầu hàng rồi gia
nhập vào chính đoàn quân Nam tiến, các thành phố nối theo nhau thất thủ.
Chỉ thiếu một chút nữa là thống nhất được bán đảo. Tướng quân Kim Nhật
Thành và các đồng chí của ông đã quá tự tin, chủ quan khinh địch, say
men chiến thắng mà không ngờ tới "chiêu" đánh úp, đột kích, cắt sườn táo
bạo, bất ngờ, và tài tình của danh tướng MacArthur. Khiến cho họ từ
thắng thành thua.
Xét trên bình diện quốc tế thì Hàn Quốc có
chính danh hơn, ít nhất về pháp lý quốc tế. Hàn Quốc lập quốc trước
CHDCND Triều Tiên, tuy năm 1991 hai nước mới chính thức gia nhập Liên
Hiệp Quốc, nhưng năm 1948 Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết công nhận Đại
Hàn Dân Quốc. Mặc dù Liên Hiệp Quốc thời đó bị Mỹ thao túng, lộng quyền,
lộng hành, nhưng ít ra Hàn Quốc vẫn có danh nghĩa trên "giấy tờ", có
danh nghĩa về mặt kỹ thuật.
Ngày nay, Hàn Quốc có quan hệ ngoại
giao rộng rãi với gần tất cả các nước trên thế giới, trong đó bao gồm
nhiều cường quốc, và được dư luận quốc tế đồng tình. Hệ thống chính trị
dân chủ tư sản, khác với chính thể độc tài, phong kiến kiểu Mao của
người anh em phía Bắc. Có tự do kinh tế, tự do chính trị hơn, quyền tự
do cá nhân được cởi mở, thoải mái, thông thoáng hơn, đời sống kinh tế
của nhân dân tốt hơn, giàu có thịnh vượng hơn. Lại được tiếng "yêu
chuộng hòa bình", tránh chiến tranh (thật ra là không muốn ảnh hưởng xấu
đến túi tiền). Còn Triều Tiên thì bị mang tiếng "hiếu chiến", "hung
hăng", "trục Ma Quỷ", "tài trợ khủng bố", "mối đe dọa của hòa bình"...
Xét
theo góc độ quốc gia dân tộc thì phe Kim Nhật Thành có quá khứ cầm súng
chống Nhật, dù đánh không thắng nhưng ít ra cũng có đánh, không như phe
Lý Thừa Vãn chỉ chống Nhật bằng... biểu tình. Sau này lại bắt tay giảng
hòa với Nhật. Triều Tiên cũng từng cho thấy là họ dám tiến đánh để
thống nhất nước họ. Hàn Quốc thì đã đủ sức thống nhất từ lâu nhưng có vẻ
như ngần ngừ và muốn duy trì hiện trạng, hài lòng với tình trạng chia
cắt này.
Trong lịch sử, sau khi nước CHDCND Triều Tiên ra đời thì
Hồng quân Liên Xô rút hết. Trong khi Hoa Kỳ vẫn "ăn dầm nằm dề" ở Hàn
Quốc trong những năm sau đó. Cũng thế, năm 1953 sau khi ký kết hiệp nghị
đình chiến ở Bàn Môn Điếm thì quân đội Trung Quốc cũng rút hết về nước,
trong khi Hoa Kỳ lại tiếp tục "ăn dầm nằm dề" ở Hàn Quốc.
Tư
cách chính nghĩa của Hàn Quốc cũng bị lung lay trong những năm gần đây
khi 2 cô gái Hàn bị xe lính Mỹ cán chết. Khoảng 1 vạn rưỡi quân Mỹ vẫn
đồn trú ở Hàn Quốc trong khi không có 1 người lính Trung Hoa nào ở Triều
Tiên. Lính Mỹ đóng ở Hàn Quốc dù vi phạm luật pháp Hàn Quốc thì tòa án
Hàn Quốc cũng phải rất khó khăn mới xử được, theo Thỏa ước Trạng thái
đóng quân (SOFA - Status of forces agreement) ở các nơi có căn cứ quân
sự Mỹ, nếu người lính đóng quân phạm pháp trong khi đang làm nhiệm vụ
quân sự thì thường là phải giao cho tòa án quân sự Mỹ xử, trừ các trường
hợp, vụ án đặc biệt.
Rồi vụ "thịt bò điên", lúc đó có bệnh dịch
bò điên, cả thế giới ít ai dám nhập khẩu thịt này từ Mỹ. Dưới thời tổng
thống Lô Vũ Huyễn, Hàn Quốc cấm nhập thịt bò độc hại này, nhưng sau khi
Lý Minh Bác "đắc cử" và từ Mỹ về thì đột nhiên cho nhập khẩu thịt bò
điên, bất chấp nhiều cuộc biểu tình lớn phản đối, thậm chí đưa đến sự
đàn áp của cảnh sát và sự đổ máu của người biểu tình. Có vẻ như lợi ích
của tư bản Mỹ, lợi ích kinh tế, lợi ích tư bản của người Mỹ vẫn là trên
hết, được đặt cao hơn, được xem trọng hơn lợi ích của dân đen Hàn Quốc.
Vụ thịt bò điên này đã gây ra biểu tình nhiều nơi với quy mô lớn trên
Hàn Quốc nhiều ngày, gây ra nhiều đàn áp, bắt bớ, ẩu đả, bạo lực đáng
tiếc. Nhiều người coi đây là một sự kiện "Mỹ ép Hàn ăn thịt bò điên của
mình" do không tiêu thụ được trên thị trường Mỹ và các nước khác. Người
tiêu thụ Mỹ không dám ăn, không dám mua, người các xứ khác cũng vậy,
giới tư bản tài phiệt Mỹ không tiêu thụ được món hàng này, liền đem tống
vào thị trường Hàn Quốc cho dân Hàn Quốc ăn, mà mỉa mai ở chỗ là Hàn
Quốc còn phải trả tiền cho Mỹ để "được" ăn thịt bò điên này.
Phần
nào vì những lẽ đó mà Hàn Quốc ngày nay cũng có nhiều người dân ủng hộ
CHDCND Triều Tiên, đến nỗi Hàn Quốc phải cấm ngặt hết những sách báo về
chủ nghĩa xã hội và thiên Cộng, thiên tả, thân Triều. Đăng ký blog phải
khai lý lịch, phải có thẻ căn cước cá nhân (ID) v.v. Youtube tiếng Hàn
Quốc có dạo bị chặn một thời gian. Vẫn có nhiều cấm đoán về chính trị,
cấm cản, chặn website, đặt tường lửa các trang web thân Cộng, thân Triều
Tiên, chống Hàn, các sách báo về chủ nghĩa Marx-Lenin... Trên các diễn
đàn Internet, Youtube, cộng đồng mạng vẫn thấy nhiều dân gốc Hàn đang
sinh sống khắp nơi có Internet như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Nhật, Mỹ
v.v. vẫn hay lên mạng tranh cãi và bênh vực Triều Tiên, bênh vực nhà
Kim.
Năm 2010 và 2011, một số nghi can viết trên blog, diễn đàn,
sử dụng tiểu blog Twitter để đăng lại những bài viết từ các website
chính thức của CHDCND Triều Tiên, đăng bài viết và các video clips với
nội dung ca ngợi Bình Nhưỡng đã bị cảnh sát Hàn Quốc bắt giữ vì tình
nghi tuyên truyền cho cộng sản. Luật về "an ninh quốc gia" của Hàn Quốc
hiện nay vẫn nghiêm cấm phổ biến những bài viết ngợi khen Bắc Triều Tiên
hoặc bất kỳ các hành động nào bày tỏ sự ủng hộ chủ nghĩa cộng sản.
Trong
một lần biểu tình ở Hàn Quốc chống lại sự đóng quân của Mỹ, đoàn tuần
hành tiến đến dinh tổng thống thì gặp phải một bức tường cản cao to có
bôi dầu để người dân không thể trèo lên được. Gặp chướng ngại, dân biểu
tình đã tức giận, bức xúc viết những câu lên giấy dán lên bức tường sắt:
“Đây là biên giới mới của nước ta. Kể từ đây trở đi là tiểu bang Nam
Hàn của Mỹ”.
(Người dân Hàn Quốc thắp nến phản đối Mỹ)
Trong
các cuộc biểu tình bày tỏ bất bình, chống đối quân đội Mỹ và những rối
loạn, vô pháp vô thiên mà họ gây ra ở Hàn Quốc, dân Nam Triều Tiên đã
hát lên những bài ca hãnh diện về truyền thống của các vương triều cổ
xưa hùng mạnh. Bà nội trợ Kim Sook Yi, trả lời phỏng vấn đài NBC Mỹ, đã
phẫn nộ về hoàn cảnh Hàn Quốc thế này: “Ngày xưa cổ nhân của chúng tôi
phải đi triều cống hoàng đế Trung Hoa. Nay thì lại đi triều cống
Washington. Thực là nhục nhã, một gương xấu cho trẻ con Hàn.” Một phụ nữ
khác nói thẳng: "Lee Myung Bak (Lý Minh Bác, tổng thống đương nhiệm) là
tên gian tặc Lee Wan Yong!" Lee Wan Yong vốn là đại thần bán nước của
vương triều Triều Tiên của đế chế Đại Hàn ở đầu thế kỷ 20 đã "dẫn sói
vào nhà", giúp quân đội Nhật đánh vào bán đảo Triều Tiên và triều đình
Nhật Bản sát nhập Triều Tiên làm thuộc địa. Lee Wan Yong ở Hàn bị dân
chúng coi như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Văn Hoan ở nước ta.
(Lý Minh Bác, bị nhiều đồng bào xem là một Lee Wan Yong tân thời của dân tộc Triều Tiên)
Dân
gian Hàn Quốc xưa nay thường lưu truyền qua các thế hệ bài hát “Đừng
tin Nga, đừng tin Mỹ. Coi chừng Nhật quay lại.” Họ không quên được nỗi
đau đất nước của họ bị Nga - Mỹ và các thế lực quốc tế chia đôi thành
hai miền tự trị. Dân Hàn không quên được nỗi đau chia đôi đất nước, chia
rẽ dân tộc, chiến tranh tàn phá do các thế lực siêu cường, chủ yếu do
Hoa Kỳ gây nên.
Năm 2002, khi một chiếc xe quân sự Mỹ cán chết 2
nữ sinh trung học của Hàn Quốc đã làm bùng cháy tinh thần bài Mỹ của dân
Hàn vì sự hiện diện quân sự, cũng như sự áp đặt về chính trị (mô hình
thể chế, cơ chế, ngoại giao) và kinh tế của Mỹ trên đất Hàn là một nỗi
“quốc sỉ”.
Trong thời gian đó đã tạo nên rất nhiều phong trào bày
tỏ thái độ đối với sự hiện diện của quân đội Mỹ, chống chính phủ Mỹ,
cũng như những phong trào dân tộc cực đoan kỳ thị người Mỹ, người da
trắng, các cuộc thắp nến, tuần hành, mà nổi bật nhất là hai cuộc biểu
tình quy mô to lớn huy động đến mấy chục vạn người qua vụ Phật tử và dân
chúng Hàn Quốc mượn chuyện Tin Lành, “kỳ thị tôn giáo”, và quyết định
nhập cảng “thịt bò điên Mỹ” của tổng Lý để biểu tình chống Lý - Mỹ.
Phong trào bài Mỹ, đả kích Lý, chỉ trích Mỹ, tẩy chay người ngoại quốc
một dạo từng rất sôi nổi dâng trào ở Nam Triều Tiên.
Quan hệ Triều - Trung và Hàn - Mỹ
Hàn
Quốc về chính trị, ngoại giao thì phải nhìn sắc diện của Mỹ. Về quân sự
thì phải lép vế dưới quyền các Tư lệnh liên quân người Mỹ (hiện là
James Thurman, người tiền nhiệm là Walter Sharp). Họ đã ký một số hiệp
ước chính trị bất bình đẳng, hợp đồng kinh tế bất bình đẳng với Hoa Kỳ,
khiến các dân biểu trong Quốc hội Hàn Quốc ẩu đả, hành hung lẫn nhau u
đầu sứt trán bao nhiêu lần nhưng không hiểu sao tất cả hiệp nghị, đạo
luật đó vẫn được thông qua.
Dân chúng nhiều lần kéo ra đường biểu
tình phản đối Mỹ, chống Lý Minh Bác, bày tỏ bất bình, phẫn uất trong
những vụ cưỡng gian, thịt bò điên, nhưng vô dụng, cảnh sát thì dùng hơi
cay đàn áp và bắt bớ. Phụ nữ, gái vị thành niên, trẻ em bị lính Mỹ gian
sát nhưng có những vụ không được xét xử, có nhiều vụ không được xét xử
công bằng, đa phần trường hợp chính tòa án Hàn Quốc cũng không thể xử,
mà phải giao cho tòa án binh Mỹ.
Tổng thống Lô Vũ Huyễn (Roh
Moo-hyun, Rô Mu Hiên) có chính sách và thái độ thân thiện với người
huynh đệ Triều Tiên, có thái độ kém thân thiện và dè dặt với Mỹ, thật
tâm muốn thực hiện chính sách Ánh Dương thống nhất đất nước trong hòa
bình, đã từng gặp gỡ thân tình với Kim Chính Nhật. Sau đó bị buộc phải
về hưu non, sau khi Lý Minh Bác lên thay 1 năm thì Lô Vũ Huyễn bị cáo
buộc tham nhũng và chết trong một vụ "tự tử" mờ ám, chính quyền thì
không cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân độc lập vào điều tra.
Nhiều
người không tin vào kết luận của cảnh sát vì vụ án này có rất nhiều vấn
đề sơ hở, khó hiểu. Theo báo Korea Times ở Hàn Quốc, việc ông "tự tử"
đã được tuyên bố ngay trước khi "lá thơ tuyệt mạng trên computer" được
cảnh sát tìm thấy trong phòng riêng. Và lá thơ gõ trên máy vi tính thì
không thể kiểm chứng nét chữ xem có đúng là của đương sự hay không.
Người cận vệ của ông khi được hỏi cung thì trả lời thiếu nhất quán, lúc
thế này, lúc thế khác. Theo báo Korea Herald ở Hàn Quốc thừa nhận, tới
ngày 27 tháng 5 thì bỗng dưng gã cận vệ phản cung, bảo rằng thật ra anh
ta không ở bên cạnh Lô Vũ Huyễn trong thời điểm xảy ra vụ án mạng. Do đó
nhiều người ngờ rằng đây là một sự trả thù và răn đe của Mỹ đối với ai
dám không nghe lời họ, đi ngược lại lợi ích của họ.
Một số người
cho rằng Bắc Triều Tiên phụ thuộc Trung Quốc, là một tỉnh của Trung
Quốc, là đồ đệ của Trung Quốc v.v. Đó hoàn toàn chỉ là suy diễn. Nếu
nhìn vào thực tế khách quan thì không thấy như vậy. Trung Quốc ở nước
của họ. Bắc Triều Tiên ở nước của họ. "Đèn nhà ai nấy sáng".
Dân
nghèo vượt biên sang Trung Quốc tỵ nạn bị Bắc Triều Tiên chặn bắt, Trung
Quốc cũng chặn bắt rồi giao lại cho Bắc Triều Tiên. Công dân Trung Quốc
hay bất kể là ai du lịch sang Bắc Triều Tiên từ đường Trung Quốc, mà vi
phạm luật pháp CHDCND Triều Tiên thì đều bị bắt xử theo luật pháp, có
khi xử bắn, đi bậy vào các khu vực quân sự thì bị bắn chết ngay. Trong
các phim tài liệu của CCTV, Tân Hoa xã của Trung Quốc về Bắc Triều Tiên,
có thể thấy ngay cả phóng viên nhà nước của Trung Quốc cũng bị cảnh sát
Triều Tiên giật lấy và tạm tịch thu máy khi muốn chụp hình hay quay
phim các hình ảnh nhạy cảm.
Trung Quốc chơi với Mỹ, Hàn, Nhật,
xem là đối tác tốt và có quan hệ chiến lược với Mỹ. Nhưng Bắc Triều Tiên
thì xem Mỹ - Nhật là kẻ thù không đội trời chung. Trong khi quan hệ
ngoại giao của Hàn Quốc thì rập khuôn Mỹ gần trăm phần trăm. Mỹ chơi với
ai thì họ chơi với người đó. Mỹ là đối tác của ai thì họ là đối tác của
người đó. Đồng minh của Mỹ thì cũng là đồng minh của Hàn. Kẻ thù của Mỹ
thì cũng là kẻ thù của Hàn. Tóm lại, Mỹ theo lề nào thì Hàn theo lề đó.
Tại
Bắc Triều Tiên hiện nay cũng không có 1 người lính Trung Quốc nào hay
căn cứ quân sự nào của ngoại quốc. Trong khi 1 vạn rưỡi quân Mỹ và các
căn cứ quân sự của họ vẫn hiện diện ở Hàn Quốc. Không có người Trung
Quốc hay quan chức nhà nước Trung Hoa nào nằm trên luật pháp CHDCND
Triều Tiên như lính Mỹ, đại sứ Mỹ, nhân viên ngoại giao Mỹ nằm trên luật
pháp Đại Hàn Dân Quốc, họ phạm tội gì, gây hại cho ai trên đất Hàn Quốc
thì tòa Hàn Quốc cũng không được quyền xử. Quân đội Triều Tiên cũng chỉ
tuân lệnh Đảng Lao động và chính phủ nước mình chứ không cần phải tuân
theo 1 người Trung Hoa nào hay 1 vị tướng tư lệnh liên quân người ngoài.
Mỹ
- Trung đúng là có sức ảnh hưởng rất mạnh lên CHDCND Triều Tiên và Hàn
Quốc, nhưng không có nghĩa họ nằm trong tay Mỹ - Trung, không có nghĩa
Triều Tiên là một quận huyện của Trung Quốc hay Hàn Quốc là một tiểu
bang của Hoa Kỳ. Nhiều người vì không ưa Trung Quốc, Mỹ, hoặc liên
tưởng, cố gắng liên kết vấn đề Đông Dương, Việt Nam với vấn đề Triều
Tiên, nên đã có phần cảm tính, quá lời khi nói như CHDCND Triều Tiên và
Hàn Quốc là hai con rối bù nhìn, vệ tinh của Mỹ - Trung.
Sự thật
là không có bằng chứng gì cho thấy Trung Quốc làm chủ ở CHDCND Triều
Tiên và Mỹ làm chủ ở Hàn Quốc. Không phải hễ cứ đóng quân là làm chủ, là
xâm lược. Số lượng quân Mỹ ở Hàn Quốc trong một thập niên trở lại đây
cũng không quá 3 vạn người và hiện nay chỉ có khoảng 1 vạn rưỡi, và họ
đóng quân cố định chứ không loạn như ở miền Nam Việt Nam trước 1975.
Các
vũ khí của CHDCND Triều Tiên đa số đều là vũ khí cũ của Liên Xô đã cải
tiến hoặc tự chế, thấy rất ít vũ khí Trung Quốc. Một số người phương Tây
làm việc tại CHDCND Triều Tiên cũng cho biết nước này và Trung Quốc
không có quan hệ gì quá thân mật.
Về Hàn Quốc, họ đủ sức tự túc,
cho dù Mỹ có buông ra thì họ cũng sẽ chẳng có việc gì với một trong
những nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới và nền quốc phòng tiên tiến,
hiện đại, với trên 80% vũ khí tự chế. Dù Mỹ buông ra không giúp gì nữa
thì Hàn Quốc về tổng thể vẫn có thực lực và mạnh hơn Triều Tiên gấp
nhiều lần.
Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Mỹ, Nixon đòi cắt đầu
Thiệu, "cố vấn" Mỹ cười cợt đòi bắn bỏ Thiệu, Nixon ví ngụy quyền như
cái đuôi của mình. Các cấp tổng thống, lãnh đạo, chóp bu, tướng tá sĩ
quan ngụy nói những lời gián tiếp hay trực tiếp thú nhận bản chất của
mình trên các phim tài liệu, chẳng hạn như phim tài liệu "Việt Nam -
Cuộc chiến 10.000 ngày" (Tập đoàn Truyền thông Canada - CBC sản xuất,
đạo diễn danh tiếng Micheal MacLear thực hiện vào năm 1980), phát lại
một số video phỏng vấn cũ trong thời chiến, đã cho thấy rõ Thiệu - Kỳ
trả lời phỏng vấn tự thú nhận rằng mình là bù nhìn, nghị gật, con rối
của Mỹ. Những người Mỹ (lãnh đạo và dân thường) chửi ngụy quyền Sài Gòn
là bù nhìn. Những biểu ngữ "Fxxx the Saigon puppet government" trên các
băng rôn phản chiến v.v. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe các lãnh đạo Mỹ,
người dân Mỹ nói gì về Hàn Quốc như thế, cũng chưa nghe các tổng thống,
lãnh đạo Hàn Quốc tự thú như vậy.
Một số người cho rằng Hàn Quốc
đang là một xã hội thực dân mới, điều này không chính xác. Chế độ thực
dân mới là một chế độ chính trị do ngoại bang làm chủ theo mô hình tay
sai bản xứ quản lý, mẫu quốc đứng ngoài hưởng thụ lợi ích từ thuộc địa
kiểu mới, thỉnh thoảng giám sát, cần thì thay người bằng đảo chính hoặc
"bầu cử". CEO bản xứ làm việc, quản lý cho owner (chủ nhân) ngoại bang.
Chế độ thực dân kiểu mới (neo-colonialist) thấy rất rõ ở miền Nam nước
ta trong thời kỳ 1955-1963 và 1972-1975.
Tuy nhiên, vấn đề tiên
quyết là người sống ở đó phải cảm thấy rõ rệt yếu tố ngoại thuộc. Trước
năm 1975, người dân miền Nam Việt Nam cảm nhận rất rõ "yếu tố Mỹ", khắp
những vùng tạm chiếm đi đâu cũng thấy và gặp người Mỹ, lính Mỹ. Ngày nay
ở Hàn Quốc người dân có cảm thấy rõ "yếu tố Mỹ" đó không? Tôi chưa
nghe, chưa gặp một sinh viên du học, nghiên cứu sinh, cán bộ ngoại giao
người Việt, hay người Hàn nào ở Hàn Quốc bảo rằng Hàn Quốc đang là một
hệ thống thuộc địa kiểu mới, đang bị Mỹ xâm lược, chiếm đóng hay đô hộ.
Ngay
cả trong giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay, trong các môn học về lịch sử
thế giới, lịch sử châu Á, cũng chỉ đề cập tổng quát, trung lập, khách
quan về cuộc chiến Triều Tiên và các diễn biến lịch sử trên bán đảo này.
Hoàn toàn không nói gì về việc Hàn Quốc là tay sai của Mỹ hay Mỹ đã xâm
lược gì cả. Cũng không nói gì ai là chính nghĩa. Chỉ trình bày các diễn
biến lịch sử một cách khách quan.
Triều Tiên và Trung Quốc cũng
không tập trận chung. Hai bên cũng có nhiều quan điểm rất khác nhau và
thậm chí mâu thuẫn gay gắt. Hồi trước Triều Tiên đơn phương rút khỏi đàm
phán 6 bên trong đó có Trung Quốc. Trong khi Hàn - Mỹ luôn "kẻ tung
người hứng" với nhau trên trường ngoại giao quốc tế. Quân Mỹ đóng ở Hàn
Quốc và thường xuyên tập trận với nhau.
Trung Quốc phục hồi quan
hệ và bang giao với Mỹ từ đầu những năm 1970 để cùng chống Liên Xô và
Việt Nam, nhưng Triều Tiên vẫn chống Mỹ. Ngày nay Trung Quốc có quan hệ
chiến lược và quan hệ kinh tế chặt chẽ với Mỹ nhưng họ vẫn căm thù Mỹ.
Nhìn các động thái ngoại giao thì thấy rõ ràng Trung Quốc và Triều Tiên
là hai thực thể độc lập và riêng biệt, có nhiều khác biệt. Trung Quốc
đối xử rất chừng mực. Họ muốn duy trì ổn định khu vực để phát triển kinh
tế và lợi dụng Triều Tiên làm vùng đệm chống lại sự bành trướng chính
trị quân sự của Mỹ và phương Tây. Nhưng không can thiệp nhiều. Họ chỉ
tham gia vào khi có gì đó trực tiếp va chạm tới lợi ích của họ.
Dư
luận Trung Quốc lâu nay cũng chỉ trích Triều Tiên khá mạnh, họ nuối
tiếc sinh mạng 150.000 chiến sĩ Trung Quốc tử trận "chỉ để cứu một chính
quyền như vậy". Trương Liễn Khôi, một giáo sư về nghiên cứu chiến lược
quốc tế tại trường Đảng trung ương đồng thời là một chuyên gia nghiên
cứu Bắc Triều Tiên, nhận xét: Quyết định của Bắc Triều Tiên về ưu tiên
phát triển quân đội và vũ khí hạt nhân đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
vận mệnh quốc gia Triều Tiên và tình hình trên bán đảo, thách thức cộng
đồng quốc tế, châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Bắc Á.
Một
bài bình luận trên tờ “Tuần san Phượng Hoàng” trong dịp kỷ niệm 60 năm
Chiến tranh Triều Tiên đã viết: “Bất chấp sự hy sinh to lớn của các sinh
mạng người Trung Quốc trong cuộc chiến Triều Tiên cũng như những sự hỗ
trợ khổng lồ mà Trung Quốc dành cho sau đó, chính quyền Bắc Triều Tiên
vẫn không thể hiện được sự cảm kích xứng đáng. Kể từ khi Trung Quốc bắt
đầu cải cách và chính sách mở cửa, Bắc Triều Tiên một mặt nhận viện trợ
của Trung Quốc, mặt khác chỉ trích công khai ý thức hệ, chính sách Cải
cách, lý luận Đặng Tiểu Bình, thuyết Ba đại diện của Giang Trạch Dân và
cách đi lên XHCN của Trung Quốc. Họ bỏ phiếu phản đối Bắc Kinh đăng cai
Olympic 2000. Các chính sách của họ đặt Trung Quốc trước sức ép quốc tế
và gây thiệt hại nghiêm trọng cho hình ảnh của Trung Quốc. Bắc Triều
Tiên vẫn phải phụ thuộc tới 90% nguồn dầu mỏ và 80% hàng tiêu dùng vào
Trung Quốc trong khi họ chi 25% GDP của mình cho quốc phòng”.
Trong
một bài viết khác mang tựa đề “Bắc Triều Tiên-cái bẫy đầu tư”, tờ “Tuần
san Phượng Hoàng” nêu ra những câu chuyện đáng buồn của các doanh
nghiệp Trung Quốc thiết lập dự án tại Bắc Triều Tiên nhưng trang thiết
bị của họ bị tịch thu, tiền bạc bị phong tỏa, các nhà máy phải đóng cửa.
Các quy định, luật lệ thay đổi tùy tiện, không thông báo trước và các
nhà đầu tư phải tự lo liệu đường xá, nguồn cung năng lượng.
Không
ít người Trung Quốc đang đặt câu hỏi tại sao tiền bạc của họ lại bị
dùng để hỗ trợ cho một chế độ mà thậm chí không ghi nhận những trợ giúp
nhận được. Họ đang đặt câu hỏi tại sao Bình Nhưỡng phớt lờ kêu gọi của
chính phủ Trung Quốc từ bỏ vũ khí hạt nhân, theo đuổi hòa bình với các
láng giềng mà thay vào đó là những hành động có thể khiến Nhật Bản cũng
chế tạo vũ khí hạt nhân. Họ đang đặt câu hỏi liệu như vậy có đáng để
150.000 lính Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến cách đây 6 thập kỷ
hay không.
(xem tiếp phần 2)